Thứ Tư, 6 tháng 12, 2017

DƯ LUẬN VIÊN

Phạm Đình Trọng



Hình ảnh : Đại tá, Nhà văn, Nhà báo Phạm Đình Trọng - Người viết tuyên ngôn ra khỏi đảng cách đây gần 10 năm.

1.   Đàn áp người dân yêu nước biểu tình lên án Tàu Cộng xâm lược cướp biển cướp đảo của ta, chống phá người dân làm lễ tưởng niệm những anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu chống giặc Tàu Cộng xâm lược, nhà nước cộng sản Việt Nam còn tập hợp những người trẻ tuổi ngộ độc ảo thuyết cộng sản, trang bị cho họ chiếc áo đỏ lòm màu máu và lá cờ lênh láng màu máu, đẩy họ ra đối mặt với người dân, gây sự, xung đột với tình cảm yêu nước thương nòi thiêng liêng của người dân, biến họ thành những kẻ vô loài hung hăng điên cuồng khiêu khích, ngăn cản, chống phá cuộc biểu tình, lễ tưởng niệm của lòng yêu nước, chống phá chính giống nòi của họ, bôi bẩn lên trang sử vàng oanh liệt của cha ông mà họ vừa học ở nhà trường.







Nhà nước cộng sản Việt Nam đã nướng nhiều thế hệ trẻ Việt Nam trên ngọn lửa chiến tranh Nam – Bắc điêu tàn, nay lại biến nhiều người trẻ thành những kẻ lạc loài, những đứa con hoang của giống nòi Việt Nam. Biên chế những kẻ lạc loài đó trong tổ chức có tên là Dư Luận Viên, những người cộng sản cầm quyền đã rút ruột tiền thuế nghèo của dân trợ cấp cho những hoạt động gây rối của đám dư luận viên khá đông đúc và hôn mê sâu học thuyết máu đấu tranh giai cấp.

Đội ngũ dư luận viên hôn mê học thuyết máu đấu tranh giai cấp như những kẻ ngáo đá điên cuồng chống phá cuộc xuống đường, chống phá lễ tưởng niệm của lòng yêu nước thì mọi người đều dễ dàng nhận ra và nhiều người còn biết rõ mặt, rõ tên những dư luận viên đầu trò. Những Trần Nhật Quang, Hoàng Nhật Lệ, Đỗ Anh Minh .  .  . , toàn những cái tên đẹp như ánh sáng và những gương mặt trẻ ngời ngời như tia nắng ban mai mà tâm hồn bị đầu độc, bị bưng bít trở nên tối tăm như đêm dài nô lệ.

Nhưng còn có những dư luận viên không xuất trận bầy đàn, không xuất hiện ở quảng trường, đường phố, không mang áo máu, cờ máu thì không phải ai cũng nhận ra.

2.   Chức bự, quyền to nhưng não bé, nghĩ cạn, lại muốn phô trương quyền uy với thiên hạ, ông cục trưởng cục nghệ thuật biểu diễn của bộ lớn mang tên Văn hóa liền ban lệnh cấm năm nhạc phẩm ra đời ở miền Nam trước năm 1975 đã được người tiền nhiệm của ông cho phép sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.

Bài hát là sản phẩm của tâm hồn, tình cảm, là sáng tạo nghệ thuật. Sức sống, sức lan tỏa của tác phẩm nghệ thuật chỉ phụ thuộc vào chất lượng nghệ thuật của nó và sự cảm thụ, đồng cảm của công chúng. Câu ca dao về con cò, con vạc, bài dân ca bèo dạt mây trôi chẳng cần quyền uy nào cho phép, chẳng cần quyền lực nào bảo lãnh vẫn sống bền bỉ trong hồn người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác và nó sẽ tồn tại mãi mãi cùng sự tồn tại của dân tộc Việt Nam. Một bạo chúa, một quyền lực độc tài nào muốn giết chết câu ca dao về con cò, con vạc trong tâm hồn người Việt Nam, muốn cấm bài dân ca về những thân phận, những cuộc tình bèo dạt mây trôi cũng không thể giết được, không thể cấm được.

Dùng quyền lực hành chính cho phép sự tồn tại của một bài hát đã là sự vô lối. Càng vô lối hơn khi dùng quyền lực hành chính cấm đoán một sản phẩm của tâm hồn, tình cảm.

Sự vô lối, vô văn hóa của ông cục trưởng ở bộ mang tên Văn hóa gây kinh ngạc và phẫn nộ cho đông đảo người dân. Cả những người không hề biết những bài hát bị cấm giai điệu như thế nào, lời ca ra sao cũng bất bình. Vì hát hay không hát những bài hát đó là lí tưởng thẩm mĩ của họ, là quyền của trái tim họ, quyền của tâm hồn họ chứ không phải quyền của ông cục trưởng, ông bộ trưởng.

Dù vô lối nhưng lệnh cấm năm bài hát của ông cục trưởng là quyền uy của nhà nước cộng sản. Bảo vệ lệnh cấm vô lối của ông cục trưởng là bảo vệ quyền uy nhà nước cộng sản. Cả bộ máy truyền thông nhà nước cộng sản vội vã vào cuộc và những cái tên vẫn thường xuất hiện trên mặt báo lề đảng, những khuôn mặt vẫn thường xuất hiện trên truyền hình nhà nước cộng sản với danh xưng nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà lí luận phê bình âm nhạc như nhà báo Nguyễn L, nhà thơ, nhạc sĩ, “nhà lí luận phê bình âm nhạc” Nguyễn T. K. lại có bài trên báo lề đảng, lại có mặt trên truyền hình nhà nước cộng sản.

Trước đây họ xuất hiện trên mặt báo, trên màn hình televisions, mỗi người một giọng tạo thành dàn hợp xướng tụng ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tụng ca cuộc chiến tranh Nam – Bắc điêu tàn, tụng ca con người mang lí tưởng cộng sản và tụng ca thành tựu rực rỡ của nền văn hóa nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nay họ đồng loạt ỉ ôi phê phán, gay gắt lên án năm bài hát vừa bị cấm.

Không mặc áo máu, không mang cờ máu nhưng những người như nhà báo Nguyễn L, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà “lí luận phê bình âm nhạc” Nguyễn T. K. chính là những dư luận viên của nhà nước cộng sản ở lãnh địa văn hóa tư tưởng.

3.   Mấy hôm nay người dân quan tâm đến đời sống văn hóa đất nước lại xôn xao bất bình về một sự việc do một cụ già 83 tuổi có khuôn mặt rất lão nông gây ra. Khuôn mặt lão nông vốn xuất thân trong gia đình có người tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp là thời trai trẻ của khuôn mặt lão nông hôm nay. Tuổi trẻ đó được tổ chức đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chín năm đưa sang nước Tàu cộng sản học tiếng Tàu, học văn hóa Tàu.

Cùng với việc viện trợ súng đạn cho những người cộng sản Việt Nam đánh Pháp ở Điện Biên Phủ, viện trợ cho hiện tại, nước Tàu Cộng sản còn viện trợ cả văn hóa Tàu Cộng, cả chữ nghĩa Tàu Cộng cho con em những người cầm súng Tàu Cộng chiến đấu chống Pháp nữa, viện trợ cả cho tương lai. Ngày nay với học hàm phó giáo sư, với vốn liếng chữ nghĩa có được trên chặng đường ngàn dặm xa nước đi nhận viện trợ văn hóa, cụ phó giáo sư 83 tuổi đề xuất việc “cải tiến” chữ viết đương đại của người Việt. Làm cho chữ Việt “cải tiến” xa lạ với chính người Việt. Làm cho thế hệ người Việt của tương lai học thứ chữ Việt “cải tiến” phải đoạn tuyệt với chữ viết của thế hệ cha anh, đoạn tuyệt với kho tàng văn hóa đồ sộ của của chữ Việt truyền thống để lại. Làm cho ngữ âm của thứ chữ viết “cải tiến” đơn điệu, thô thiển và xa lạ với ngữ âm tiếng Việt vốn vô cùng phong phú, uyển chuyển, tinh tế và có sức bao dung chấp nhận, nâng niu ngữ âm của mọi miền đất nước. Ngữ âm của thứ chữ Việt “cải tiến” xa lạ với ngữ âm tiếng Việt nhưng lại khá gần gũi, đồng điệu với ngữ âm tiếng Tàu!

Bài dân ca Bèo Dạt Mây Trôi không phải chỉ là khúc cảm thán của con người về thiên nhiên, về cuộc đời trôi nổi vô định. Bèo Dạt Mây Trôi là nỗi niềm, là thân phận những thảo dân vô danh nhỏ bé, mỏng manh trước thiên tai, giặc giã, trước bạo quyền hà khắc, trước biến thiên lịch sử. Bèo Dạt Mây Trôi tuy buồn man mác nhưng có sức sống mãnh liệt vì đó là hồn dân dã Việt Nam. Không thể vì nỗi buồn man mác đó mà phải cải biên, cải tiến, cải tổ, cải táng để bài dân ca Bèo Dạt Mây Trôi cũng có giai điệu hùng tráng như bài Quốc Tế Ca vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian.

Chữ Việt truyền thống tồn tại mấy trăm năm đã mang hồn vía của người Việt, là tài sản của mọi người Việt. Đó là tài sản của những nhà khoa học ở những tháp ngà chữ nghĩa. Nhưng đó cũng là tài sản của bác xe ôm ngồi chờ khách trong nắng bụi vỉa hè mở tờ báo ra đọc. Không thể vì chi tiết nhỏ chưa thật toàn bích, chưa thật hoàn thiện của chữ Việt mà đè ngửa nó ra giải phẫu thẩm mĩ, cắt bỏ chỗ nọ, thêm thắt chỗ kia, biến chữ Việt truyền thống đã mang hồn vía người Việt thành thứ chữ Việt dao kéo, lai căng, đầu Ngô, mình Sở, vô hồn.

Chữ viết đã mang hồn của người Việt bị “cải tiến” thành thứ chữ Việt vô hồn làm sao những người mang hồn Việt có thể thờ ơ, bình thản im lặng. Những đợt sóng lừng của sự bất bình ào ạt dâng lên chặn đứng bàn tay cầm dao bầu chọc tiết heo lăm le muốn giải phẫu thẩm mĩ chữ Việt, biến chữ Việt thấm đẫm hồn Việt thành thứ chữ Việt chết khô, vô hồn.

4.   Nhưng cần bình tĩnh để nhận ra người đề xuất “cải tiến” chữ Việt có phải chỉ là một kẻ đốt đền hay là một người lính lĩnh ấn tiên phong đi mở một mũi xung kích mới đánh vào tâm linh, hồn cốt người Việt, đánh vào đời sống văn hóa tinh thần đất Việt, sau lần nổ phát súng thăm dò: Đưa chương trình giáo dục chữ Tàu và văn hóa Tàu vào bậc tiểu học.

Trước sự bất bình, phẫn nộ của người dân về ý đồ giết chết hồn Việt Nam trong chữ viết của người Việt Nam, kênh truyền hình chính thống của nhà nước cộng sản Việt Nam liền mau mắn cho xuất trận một dư luận viên quen thuộc có học vị tiến sĩ văn chương ra chống trả làn sóng phẫn nộ, bảo vệ người lĩnh ấn tiên phong đi mở mũi xung kích mới đánh vào một mảng hồn Việt.

Dư luận viên quen thuộc vì dù là nữ dư luận viên mà cả thanh và sắc đều là dấu trừ, lại đã luống tuổi, là tiến sĩ văn chương, tiến sĩ của văn hay chữ tốt mà nói năng cũng thiếu vắng ý đẹp lời hay nhưng lại xuất hiện khá thường xuyên trên kênh văn hóa nghệ thuật truyền hình nhà nước.

Nữ chiến binh dư luận viên này thường bắn thẳng những loạt đạn ngôn từ chát chúa như người lính trên chốt tiền tiêu quất những loạt AK quyết liệt. Mới cách đây chưa lâu, với giọng khàn khàn, rè rè, nữ chiến binh dư luận viên luống tuổi này đã quất loạt đạn ngôn từ thẳng căng vào những facebooker khi bà cay nghiệt và hồ đồ kết tội: Năm mươi phần trăm facebooker là những kẻ vô công rồi nghề!

Vì sao bà tiến sĩ dư luận viên lại hằn học nã đạn ngôn từ vào facebooker như vậy? Trước đây công việc cứu trợ những thân phận hẩm hiu, thiệt thòi đều do các tổ chức nhà nước đảm nhiệm. Dân ta vốn giàu lòng yêu nước thương nòi. Trong những tai họa của đất nước, người dân mở lòng đổ của ra cứu trợ rất lớn. Nhưng chiến dịch cứu trợ chỉ rầm rộ, ồn ào, thừa thãi ngôn từ về sự đùm bọc chia sẻ trên hệ thống truyền thông nhà nước. Còn của cải vất chất của những tấm lòng từ thiện đến với những người khổ hạnh là một ẩn số không thể nào biết được. Đồng tiền xóa đói giảm nghèo từ ngân sách quốc gia, có sự giám sát của cả bộ máy nhà nước còn đổ thẳng vào nhà quan tham. Đồng tiền cứu trợ của dân đi theo con đường nhà nước làm sao thoát được những quan tham đó. Những tấm lòng trắc ẩn trong dân đành phải trực tiếp tự đứng ra làm từ thiện.

Một tiến sĩ truyền thông hết năm này sang năm khác lặng lẽ, bền bỉ mang quần áo, sách bút, gạo tiền đến những bản làng xơ xác trên núi cao heo hút để những đứa trẻ quần áo tả tơi phong phanh trong gió rét, bữa cơm hàng ngày chỉ có lỏng chỏng vài hạt ngô chưa ăn đã hết từ nay có được manh áo ấm và có được bữa “cơm có thịt”. Tin tưởng ở những nhân cách, những con người cụ thể, người dân đã hồ hởi giao cho một nhà báo trẻ hàng chục ngàn tỉ đồng để anh trực tiếp mang đồng tiền thơm thảo tình người đó đến trao tận tay người dân vùng bão lũ miền Trung.

Nhưng việc làm từ thiện cao cả, kịp thời, hiệu quả và vô tư đó đã bị một chương trình truyền hình 60 phút của đài truyền hình nhà nước cộng sản cật vấn, nghi ngờ, dè bỉu “làm từ thiện với động cơ gì”. Trả lời sự cật vấn, dè bỉu xấc xược đó, facebookers đã lên tiếng. Lập tức, nữ chiến binh dư luận viên thiện chiến, có ý chí chiến đấu cao liền được kênh truyền hình kia đưa ra nghênh chiến và nữ chiến binh dư luận viên đã nghiến răng xả băng đạn ngôn từ vào facebooker: hạng vô công rồi nghề!

Lần này nữ chiến binh dư luận viên lạnh lùng ngạo mạn: Việc cải tiếng chữ viết là việc của các nhà khoa học, không phải việc của đám quần chúng không biết gì!

5.   Đài truyền hình nhà nước cộng sản Việt Nam mau mắn đưa dư luận viên gạo cội ra bênh vực người đề xuất “cải tiến” chữ Việt đã xác nhận rằng ý đồ “cải tiến” chữ Việt nhằm làm cho chữ Việt xa lạ với người Việt, xa lạ với cội nguồn văn hóa Việt Nam không phải chỉ là ý đồ riêng của cụ phó giáo sư 83 tuổi.


Điểm mặt vài dư luận viên để xót xa nhận ra rằng với nhà nước cộng sản Việt Nam, tiến sĩ, nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ cũng chỉ là những dư luận viên, công cụ tuyên truyền, công cụ đàn áp dân của nhà nước cộng sản. Nhà nước như vậy không thể có những trí thức, những nghệ sĩ đích thực, chân chính.

Nguồn : 
https://www.facebook.com/kesiviet/posts/757100551157994?pnref=story

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

XE ÔM HÀ NỘI ..........


   Để có thu nhập ở lại Hà Nội đòi tài sản bị cướp . Từ hôm nay Bùi tôi bắt đầu khai trương XE ÔM . Mời bà con anh chị em ủng hộ
Xin cảm ơn và liên hệ số điện thoại : 01636569956 gặp Quyền yêu cầu đọc số điện thoại chị Hằng ( vì người này đang giữ máy của tôi )
.......................................
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
_________________________
                                                   Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2017.


ĐƠN TỐ GIÁC TỘI PHẠM
          (Về việc: Tội bắt, giữ người trái pháp luật và tội cướp tài sản)

Kính gửi:
- Thiếu tướng, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Đoàn Duy Khương;
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.

I. Người tố cáo:

Tôi, Bùi Thị Minh Hằng, sinh năm1964.
Địa chỉ: Số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

II. Người bị tố cáo:

Trưởng Công an thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: Số 7 Phó Đức Chính, phường Lê Lợi, thị Xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội.

III. Nội dung vụ việc:

   Khoảng hơn 14 giờ ngày 01/11/2017, tôi đang ở nhà Cau Mợ tôi (Bà Tô thị Ban và ông Phạm Văn Sử ) tại số nhà 92 Hoàng Diệu, phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, chờ Mợ tôi để cùng ra ngoài đi mua sắm thì thấy Cảnh sát Khu vực cùng một người đàn ông mặc thường phục đi vào nhà. Họ nói với gia đình là họ đi kiểm tra hộ khẩu định kỳ. Tôi thấy có điều gì đó khác thường nên đã xuống hỏi. Đầu tiên tôi hỏi người mặc thường phục: Anh là ai? Anh đi theo chơi hay làm gì? Anh ta trả lời: “Tôi đến đây để làm việc”. Tôi nói: “Anh làm việc thì cần phải mặc quân phục, đeo bảng tên cho dân biết chứ”. Trong lúc hỏi , tôi lấy điện thoại ra ghi hình. Tôi đang nói tới, nói lui thì bất ngờ từ ngoài cổng gần chục người mặc thường phục xông vào. Họ không chào hỏi, hay nói lý do vào nhà với chủ nhà. Họ xông đến giật điện thoại trên tay tôi và túm lấy người tôi lôi kéo. Tôi hét lên: “Các người là ai? Tại sao lại xông vào tận nhà người ta mà khủng bố thế này”. Không một lời giải thích, đám người này lôi tôi sềnh sệch từ trong nhà ra ngoài cổng (khoảng chừng chục mét), rồi họ xô đẩy, ấn, nhét tôi lên chiếc xe ô tô 07 chỗ đậu sẵn trước cổng nhà. Bọn họ hành động hết sức manh động và bất chấp pháp luật. Sự việc diễn ran gay giữa ban ngày tại khu dân cư đông đúc, trước sự chứng kiến của nhiều người dân. Những người dân hôm đó đã không hiểu chuyện gì xảy ra. Khi ấn tôi lên xe, bọn họ cũng cập rập chen nhau lên để khống chế tôi. Hàng ghế trên 02 An ninh nữ mặc thường phục (sau này tôi biết là An ninh) ngồi cả lên đùi nhau; còn hàng ghế dưới 02 người đàn ông thường phục kẹp chặt 02 bên nách tôi. Họ bẻ quặt tay tôi và ra sức ghì chặt tôi xuống để móc chiếc điện thoại tôi cất trong túi áo mà tôi gồng tay để giữ. Họ cho xe chạy lòng vòng quanh bờ hào. Tôi luôn quát 02 người mặc thường phục rằng: “hãy buông tao ra, chúng mày muốn gì thì hãy hành xử cho lịch sự”. Nhưng họ không hề có ý buông hay nới lỏng tay tôi. Phần tôi cũng cương quyết chống trả hành động sai trái của họ, nhưng không chống nổi vì họ rất hung hãn. Sau đó , họ cho xe vào sân trụ sở Công an thị xã Sơn Tây và lôi tôi ra giữa sân. Ngay tại sân, người đàn ông mặc áo thun xanh ở trên xe nhẩy xuống chỉ huy số người trên ôm chặt lấy tôi, 4-5 người đàn ông và 1 nữ an ninh ( tôi đã có hình ảnh ) xông vào và lột sạch tài sản có trong túi quần, túi áo của tôi. Trong khi Họ bẻ và giữ chặt tay tôi , rồi họ lấy đi của tôi: 01 điện thoại iPhone 6s, 2.800.000 đồng. Sau đó họ đẩy tôi vào một căn phòng của Điều tra dùng để lấy cung, nằm bên phía dãy nhà sát với đường K65 (cũ). Tại đây họ đã dùng nhiều người để tra vấn tôi . Nhưng tôi không hợp tác . Họ đã giữ tôi tại đây đến gần 21 giờ cùng ngày cho đến khi tôi mệt lả người phải nằm lên chiếc bàn trong phòng làm việc thiếp đi thì họ mới gọi tôi dậy . Yêu cầu tôi ký 02 biên bản với nội dung vu khống - bịa đặt trắng trợn khiến tôi vô cùng phẫn nộ buộc phải xé bỏ và cực lực lên án thì họ mới cho tôi về lại nhà cậu tôi là nơi họ khủng bố bắt tôi đi .

IIII- YÊU CẦU VÀ ĐỀ NGHỊ :

   Hành vi của những người trên có sự tham gia của Cảnh sát Khu vực phường Quang Trung, thị xã Sơn Tây tên Long và sau đó diễn ra tại trụ sở Công an thị xã Sơn Tây. Như vậy, Trưởng Công an thị xã Sơn Tây chính là người phải chịu trách nhiệm về hành vi của những người tham gia hôm đó.
- Căn cứ Điều 133, Bộ luật hình sự 1999, quy định:
“Điều 133. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.”
- Căn cứ Điều 123, Bộ luật hình sự 1999, quy định:
“Điều 123. Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người thi hành công vụ;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người.

3. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
​Tôi yêu cầu Giám đốc Công an thành phố Hà Nội:

1- Khởi tố vụ án “Cướp tài sản và bắt, giữ người trái pháp luật” xảy ra ngày 01/11/2017 tại thị xã Sơn Tây, trong đó tôi, Bùi Thị Minh Hằng là người bị hại.

2- Buộc Trưởng Công an thị xã Sơn Tây phải trả tôi số tài sản bị cướp đoạt là: 01 điện thoại iPhone 6s, 2.800.000 đồng.
Tôi trân trọng cám ơn.
Nơi nhận: Người làm đơn :
Cựu Tù nhân lương tâm Bùi Thị Minh Hằng
Nơi gửi : Như trên
Cùng toàn thể
- Các cơ quan truyền thông trong nước và quốc tế ( để theo dõi )

- Lưu, 03 bản.

TRÍ TRÁ GIỮA NGHỊ TRƯỜNG LỪA DỐI CẢ QUỐC HỘI

PHẠM ĐÌNH TRỌNG

   Từ hơn nửa năm nay, người Việt trên cả nước và người Việt trên khắp thế giới đều biết sự thật vụ việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội sáng ngày 15.4.2017. Hai sĩ quan quân đội và viên trung tá phó trưởng công an huyện Mỹ Đức nhờ cụ Lê Đình Kình, 82 tuổi, dẫn ra cánh đồng Sênh chỉ mốc giới đất của dân Mỹ Đức. Ra đến cánh đồng, theo yêu cầu của viên sĩ quan quân đội, cụ Kình quay lại bảo mấy người dân đi theo quay về.  

   Chỉ còn đám võ biền và mấy cụ già đều ở tuổi ngoài 70 đi đến chỗ chiếc ô tô nhà binh đỗ đợi. Lập tức kịch bản triệt hạ thủ lĩnh, triệt hạ ý chí, linh hồn dân Đồng Tâm được triển khai. Một tên mặc đồ dân sự ôm súng từ trong ô tô nhảy ra xả loạt đạn chát chúa thị uy. Mấy ông già nông dân giật mình, sững sờ, còn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra thì viên trung tá công an lao đến cụ Kình, tung cú đá làm cụ già mình hạc bay như chiếc lá khô. Thân già da cóc bị ném lên ô tô, tống giẻ vào mồm. Ô tô rồ máy lao hơn 50 cây số từ Cánh đồng Mỹ Đức đến thẳng cơ quan cảnh sát điều tra phố Thiền Quang, Hà Nội, mặc cho sự đau đớn của cụ già 82 tuổi lãnh trọn cú đá trời giáng của kẻ đã dày công luyện võ thuật trong trường công an. Cú đá làm cho hình hài còm cõi vỡ xương hông, gãy xương đùi.

   Vậy mà giữa hội trường Diên Hồng của Quốc hội nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ông nghị Đào Thanh Hải, hàm cao đại tá, chức lớn phó giám đốc công an kinh kì lại ráo hoảnh đổi trắng thay đen rằng Cụ Kình bị gãy xương là do người nhà giằng co, lôi kéo!

   Người dân muốn đi theo bảo vệ cụ Kình đã bị viên sĩ quan quân đội yêu cầu cụ Kình đuổi họ về. Dù họ có mặt ở đó để giằng kéo giữ lại cụ Kình vì thương yêu, bảo vệ cụ thì cũng không thể giằng kéo thô bạo gây tổn thương cho cụ được. Vỡ xương hông, gãy xương đùi phải do lực lớn giáng vào chứ không thể do lực kéo ra. Lực kéo ra chỉ có thể làm trật khớp xương. Lực kéo mà làm vỡ xương hông, gãy xương đùi thì phải xé rách cả da thịt. Nói rằng cụ Kình bị vỡ xương hông, gãy xương đùi là do người nhà giằng kéo cụ khỏi tay những kẻ bắt giữ là nói lấy được của một nhân cách, đê tiện, vô liêm sỉ. Thật mỉa mai, thật hài hước, nhân cách vô liêm sỉ đó lại là một đại biểu Quốc hội của nhà nước cộng sản Việt Nam!

   Quốc hội của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã có người đàn bà sảo quyệt kinh doanh lòng tin, bỏ ra 30 tỉ đồng mua danh nghị sĩ Quốc hội để tạo lòng tin cho khách hàng. Nay lại lòi thêm ra ông nghị Đào Thanh Hải đổi trắng thay đen, lừa dối Quốc hội giữa hội trường mang tên Diên Hồng lịch sử! Đó là thời đen tối nhất, nhem nhuốc nhất của chính trường Việt Nam và cũng là thời đen tối nhât, nhem nhuốc nhất của lịch sử Việt Nam.

   Bạo lực với dân, nhục hình với người dân nằm trong tay công an và lừa dối dư luận đã trở thành ngón nghề nghiệp vụ mà công an nhà nước cộng sản Việt Nam thường xuyên thi thố đã gây bao oan khuất cho người dân, đã dẫn đến hàng trăm cái chết thảm thương trong đồn công an như những cái chết của những dân lành Nguyễn Công Nhựt ở Bến Cát, Bình Dương, Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên, Nguyễn Mậu Thuận ở Đông Anh, Hà Nội, Nguyễn Hồng Đê ở Phan Rang, Phạm Ngọc Nhung ở Sài Gòn .  .  . , đã dẫn đến nhiều bản án tử hình oan khiên cho người dân lương thiên, như bản án tử hình cho những công dân vô tội Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn.  .  . Bạo lực và nhục hình của công an nhà nước cộng sản Việt Nam mặc sức lộng hành làm cho mạng sống của người dân Việt Nam những ngày này mong manh như thân phận con giun, cái kiến.

   Người đàn ông đang trẻ khỏe, là trưởng phòng quản lí sản phẩm của một doanh nghiệp nước ngoài ở khu công nghiệp Bến Cát, Bình Dương, bị công an Bến Cát đưa về trụ sở làm việc rồi chết trong đồn công an với những thương tích bầm dập khắp cơ thể. Cổ tay, lòng bàn tay và ngón tay bầm đen, từ bụng trở xuống nhiều chỗ bầm tím. Hai bên háng bị bầm xanh. Dương vật và hai tinh hoàn đều bị dập nát và chảy máu.

   Cái chết mang dấu tích của những trận đòn thù gây đau đớn tột cùng đó được công an Bình Dương giải thích là do người đàn ông tự tử bằng cách lấy sợi dây sạc pin điện thoại di động treo cổ lên cửa sổ trụ sở công an! Nói rằng người đàn ông có công việc ổn định, lương khá, có vợ trẻ và gia đình hạnh phúc lại mau lẹ từ bỏ cuộc sống đầy đủ đáng mơ ước tìm đến cái chết treo cổ bằng sợi dây không chịu nổi sức căng mười kilogam lực là lời trí trá của kẻ vô liêm sỉ.

   Mạng xã hội tràn ngập clip một nhóm người cao to, cơ bắp chắc nịch hung hãn dồn đánh một thanh niên mảnh mai ngay giữa đường cái quan. Người thanh niên dáng nhỏ nhắn tay khư khư ôm chiếc túi đeo bên sườn trở thành hình nộm trong phòng tập võ hứng chịu những cú đá, những nắm đấm từ những thân hình cao to uốn cong như cánh cung trong thế võ tấn công đầy uy lực phóng tới. Hình nộm sống phải nhận những cú đá, những nắm đấm thôi sơn kể: “Họ chỉ tay, chửi thề quát tháo tôi và hai đồng nghiệp khác rồi đấm đá túi bụi vào mặt và người khiến tôi không kịp đỡ, bị chảy máu miệng, bị thương vùng đầu. Họ tiếp tục dồn tôi ra giữa đường hành hung trong khi xung quanh có rất nhiều ô tô lưu thông tốc độ cao. Ngoài đồng nghiệp và người dân, còn có nhiều công an viên chứng kiến"

   Cảnh hành hung man rợ của nhóm người cao to quây đánh anh thanh niên mảnh mai được nhiều nhà báo ghi hình và xác nhận là nhóm công an Đông Anh, Hà Nội đánh phóng viên của báo Tuổi Trẻ. Vậy mà công an Hà Nội vẫn trí trá giải thích với công luận rằng nhóm công an kia chỉ vung tay khi nói chuyện nhưng không may trúng má nhà báo mà thôi!

   Bao che cho thói côn đồ của nhóm công an Đông Anh, lãnh đạo công an Hà Nội vừa dung dưỡng sự lộng hành bạo lực, dung dưỡng lối hành xử với dân bằng bạo lực ở thủ đô văn hiến, vừa bộc lộ nhân cách thấp kém, gian dối, trí trá của những người đứng đầu lực lượng công an thủ đô.

   Đã quen trí trá đến vô liêm sỉ như vậy thì vụ việc viên trung tá công an Mỹ Đức, Hà Nội đá gãy xương đùi cụ Kình, làm cụ tàn phế suốt đời được viên phó giám độc công an Hà Nội trí trá biến báo thành xương đùi cụ Kình gãy là do người người nhà cụ Kình giằng co cũng là điều bình thường. Nhưng không thể bình thường khi sự trí trá đó diễn ra giữa nghị trường Quốc hội. Không thể bình thường khi một nghị sĩ, đại biểu của nhân dân Thủ đô đã trí trá lừa dối cả Quốc hội.

   Cũng không còn là Quốc hội bình thường khi Quốc hội chấp nhận sự trí trá, lừa dối đó. Không còn xứng đáng là đại diện cho ý chí nguyện vọng của người dân khi Quốc hội dung nạp kẻ trí trá, lừa dối đó, khi kẻ trí trá lừa dối đó vẫn ung dung, ngạo mạn là nghị sĩ Quốc hội, là đại biểu của nhân dân thủ đô.

Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017

Tội ác, sự khốn nạn của chế độ cầm quyền Cộng sản đối với gia đình tôi thế nào !


Tội ác, sự khốn nạn của chế độ cầm quyền Cộng sản
đối với gia đình tôi thế nào !

Tội ác dã man của bọn quan chức CS gây ra đối với gia đình tôi liên tục mấy chục năm qua, bao nhiêu đơn thư khiếu tố bị đùn đẩy, vòng vèo, không ai có trách nhiệm giải quyết. Cực chẳng đã, tôi phải đưa lên mạng để dư luận biết và xem cái chế độ độc đảng độc tài này đáng phải giải tán chưa ? Nay tôi vạch mặt chỉ tên những thằng quan chức khốn nạn của chế độ qua vụ việc gia đình tôi để dư luận được biết.
Sau đây là nội dung các đơn thư như :


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
-----------
Hà Nội, ngày… tháng … năm 2017
ĐƠN KHIẾU TỐ
(Về hành vi cố ý làm trái, xâm phạm hoạt động tư pháp trong tố tụng của ông Phạm Quang Khải – Nguyên Viện trưởng VKS Đống Đa và ông Nguyễn Xuân Thanh – Nguyên Chánh án Quận và thành phố Hà Nội. Khi nắm quyền hành họ đã cấu kết, thông đồng thỏa hiệp với nhau, hình sự hóa các mâu thuẫn trong dân để trả thù việc tôi và gia đình tôi, khi tôi nghe theo đảng tố cáo những tiêu cực, tham nhũng trong xã hội.
Các hành vi của bọn tham quan ô lại này có thể tổng hợp lại như sau :
          - Bắt giam người sai luật, không có lệnh phê chuẩn của VKS, bắt ngang đường, bắt cả trẻ em dưới 13 tuổi – Bật đèn xanh cho việc đánh người, phá nhà cửa tới 108 vụ. Truy nã, phạt tù 05 thành viên trong một gia đình cán bộ không có căn cứ, không phạm tội suốt trong 05 vụ án hình sự bằng cách tạo dựng, làm sai lệch hồ sơ, giả mạo nhân chứng, chứng cứ để vu oan – mưu mô, móc ngoặc đưa án phạt bằng bản án giả, cố ý không đưa các bản án bổ sung vào hồ sơ lưu (PC27)- không làm thủ tục xóa án tích để tính tiền án hãm hại người dân lâu dài từ năm 1990 đến nay).
          Kính gửi: ………………………………………………………….
                         …………………………………………………………
          Tôi là Phạm Thị Quý- 70 tuổi, cán bộ đã nghỉ hưu. Thường trú tại 323 đường Trường Chinh – phường Khương Trung – quận Thanh Xuân – Hà Nội. ĐT 01697909766 - 0438530565
          Xin trình bày như sau:
          Sau 31 năm chóng mặt, hoa mày vì liên tiếp phải gánh chịu tới 05 vụ án hình sự + 108 vụ bị hành hung đập phá nhà cửa tại 323 Trường Chinh không được giải quyết ! Trong thời gian từ năm 1987 đến năm 1997, ông Phạm Quang Khải đã cấu kểt với ông Nguyễn Xuân Thanh, lạm dụng chức vụ, quyền hạn là Chánh án- Viện phó phụ trách hình sự, rồi Viện trưởng VKS quận Đống Đa để trù dập, hãm hại 06 thành viên trong một gia đình CBCNV tôi. Độc ác hơn còn nâng quan điểm chính trị hóa các vụ hình sự của tôi, để truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội.
       Trên thực tế, cả 05 vụ hình sự thực xác định gia đình tôi không có lỗi, căn cứ:
          - KHÔNG CÓ BIÊN BẢN NÀO XÁC ĐỊNH MỘT NGƯỜI TRONG GIA ĐÌNH TÔI PHẠM TỘI NHƯ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG HAY ĐÁNH NGƯỜI GÂY THƯƠNG TÍCH.
          Ngược lại, gia đình tôi toàn bị những tên đao phủ, lưu manh côn đồ, hoạt động theo kiểu xã hội đen – Những tên viên chức nhà nước, thóai hóa biến chẩt BẬT ĐÈN XANH CHO VIỆC ĐÁNH ĐẬP NGƯỜI, phá nhà cửa của gia đình tôi tới 108 vụ, công an phường cứ lập biên bản chuyển quận, nhưng ông Phạm Quang Khải – Viện trưởng VKS quận “bảo kê” không cho xử lý vì “sự việc quá nhỏ”…
          I - Vụ hình sự thứ nhất: Làm vết thương giả để tống tiền, xảy ra ngày 15/05/1987
Năm 1987, chồng tôi làm chủ nhiệm hợp tác xã Tự Lập “có tiếng, nhưng không có miếng” – ông Ngô Duy Túc và ông Đặng Văn Sáu, Trưởng phó công an phường Nguyễn Trãi đến xin một số tiền lớn cho công an phường – chồng tôi bằng lòng cho, sau khi họp ban quản trị thống nhất giải quyết, chỉ yêu cầu công an phường viết cho môt giấy biên nhận không cần dấu má để làm chứng thanh toán nội bộ. Ông Túc, ông Sáu không xin nữa. Sau đó có việc vu cáo của anh Lã Ngọc Châm (là một thanh niên hư hỏng, đang bị khối phố đề nghị cho đi cải tạo 03 năm – Công an phường giữ lại nói để giáo dục, vì thực tế về sau anh Châm như là một công cụ của công an phường chuyên gây rối với những gia đình yếu ớt ở đường Trường Chinh như nhà anh chị Văn Túy, anh chị Thiện Tâm và gia đình tôi mà không hề bị xử lý theo pháp luật.)
Cụ thể sự việc xảy ra: Anh Lã Ngọc Châm cho rằng gia đình tôi dùng điện để truyền sang nhà ông, nên anh sang chửi đánh chồng và con tôi, đập phá tài sản gia đình tôi nhiều lần”. – Công an phường cố ý không làm rõ việc : hai công tơ điện lắp vào tường riêng của hai nhà riêng biệt, cách nhau 5m là mặt tiền nhà anh Châm. Vậy thì làm sao điện nhà tôi lại truyền sang nhà anh Châm được.
Vậy mà ngày 15/5/1987, anh Châm sang gây sự với gia đình tôi, lao gỗ vỡ đầu tôi, con tôi phản ứng lại bắng cách vẩy dầu đun bếp (cháy 03 lỗ tròn trên lán che bằng giấy dầu để xẻ gỗ nhà anh Châm cạnh nhà tôi, lỗ to nhất bằng vành nón). Công an bắt  hai đứa con tôi (Đặng Nguyệt Anh khi đó 16 tuổi, Đặng Kim Thư khi đó 13 tuổi)  buổi tối xảy ra sự việc phường lừa chồng tôi mời lên giải quyết việc của con. Rồi nói dối đưa lên quận giải quyết tiếp, hóa ra đưa vào quận giam luôn 24 ngày không có lệnh. Cháu Thư 04 ngày, cháu Anh 03 ngày. Trong khi anh Châm và gia đình chị gái lã Thị Mùi-Đỗ Văn Thanh là những kẻ sang tấn công gia đình tôi không bị bắt, chỉ bắt anh Châm và cháu gái là Đỗ Thị Bình cùng bị giam trên quận.
Mặt khác, khi các cháu được tha đã viết thư cho báo Thiếu niên tiền phong kể lại việc bị cùm, bị đe dọa ép cung ở công an phường để khai báo sai sự thật, sau đó đã được thanh tra bộ công an điều tra báo cáo bộ trưởng và trả lời Tòa soạn bằng văn bản số 334/X16 ngày 19/9/1987, xác định việc vẩy dầu đốt lán cứu mẹ của con - do cháu Đặng Kim Thư làm.
Sau khi tôi làm đơn kiện, ông Khải cho làm hồ sơ vụ án gán việc làm của con sang cho bố. Vu cáo cho gia đình tôi suỵt chó béc- giê 40 kg cắn vào khoeo chân anh Châm, vết răng là 1cm (mà không có vết răng đối xứng). (trong khi không cho tôi đi xác minh tỷ lệ thương tích) khi đưa tôi và chồng tôi ra xử lại xử thành tội “gây rối trật tự công cộng”.
Hồ sơ sai lệch như vậy nên khi ra Tòa xử đi xử lại 06 lần không thành tội gây rối trật tự công cộng, chồng tôi bị 10 tháng án treo. Tôi và anh Châm đều bị cải tạo không giam giữ… Đến 04/07/1989, tòa phúc thẩm mới có bản án phúc thẩm hạ hình phạt đối với tôi xuống mức cảnh cáo. Thời gian vụ việc này kéo dài 02 năm 01 tháng 19 ngày. Bản án sơ thẩm vụ này được ông Thanh sửa lại giả mạo thành án có hiệu lực pháp luật  với hình phạt 6 tháng án treo, đưa vào tàng thư tính là một tiền án.
II- Vụ hình sự thứ hai: Người gây ra vụ án không xử, lại xử nạn nhân và ghép tội chính trị, xảy ra ngày 26/05/1989.
Anh Lã Ngọc Châm (cạnh nhà tôi đã nói ở trên) mắc máy cưa vào tường cho chạy để sập đổ nhà tôi. Khi có đơn của tôi, cấp quận có ý kiến bằng văn bản gửi cho phường yêu cầu anh Châm yêu cầu di dời máy cưa để bảo đảm an toàn cho gia đình tôi nhưng họ không thực hiện. Tôi lên phường nói thì bị ông Thùy Phó Chủ tịch phường xúc phạm tôi, nên tôi quá bức xúc đập trả lại cái quần đen vào người ông Thùy. Thế là thành vụ án làm nhục người khác. Bên trong vụ án là ghép tội chống đối chính quyền. Hồ sơ được luật sư Phạm Thị Khang đọc và bênh vực thẳng thắn, bà Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước Nguyễn Thị Định có ý kiến can thiệp - ông Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Phạm Hưng đã xem cả hai hồ sơ hình sự trên, ra kháng nghị hủy án phúc thẩm, trả lại tự do cho tôi sau 04 tháng bị giam để chờ giám đốc thẩm ngày 25/03/1990. Bản án giám đốc thẩm tuyên phải xét xử những người gây ra vụ án, Ông Thanh chánh án quận cố tình không thực hiện, nhưng ông Thanh cố tình không quyết định kháng nghị hủy án phúc thẩm vào tàng thư PC27, để vẫn tính án phúc thẩm bị hủy là một tiền án đối với tôi để hảm hại trong các vụ án sau.
Vụ hình sự thứ ba: Rình đánh người hụt - bị ngã rồi vu cáo để trả thù, xảy ra ngày 14/08/1989.
Tôi được trả lại tự do là 28/03/1990. Quân của ông khải tuyên bố “không bỏ tù được mẹ thì bỏ tù con”. Sau đó 5 ngày (là ngày 04/04/1990) ông  đã vu cáo và khởi truy tố con trai tôi (Đặng Quốc Hùng) về  tội “cố ý gây thương tích” đối với Đỗ Văn Thanh.
Cụ thể việc vu cáo đó như sau :

Tối ngày 14/8/1989, Đỗ Văn Thanh cùng vợ Lã Thị Mùi (con Đỗ Thị Bình, Đỗ Thị Minh) kéo sang nhà tôi chửi bới gia đinh tôi là (dám làm đơn kiện nhà tao lấn chiếm đất công). Đỗ Văn Thanh nấp cạnh ngoài cửa nhà tôi để đánh bất cứ ai khi đi ra ngoài cửa. Khi con gái tôi (Đặng Kim Thư) đi ra cửa và anh cháu (Đặng Quốc Hùng) đi sau nhìn thấy bóng người cầm một vật dài dơ ngang quá đầu (do ánh sáng đèn điện 500w dùng để bán hàng của nhà Thanh hắt sang), cháu kéo em giật lùi lại  đồng thời nghe tiếng thanh sắt đập xuống phía trước cửa và Đỗ Văn Thanh nằm sóng soài ngang trước bậc cửa không dậy được. Sau đó hàng phố sang xem cùng vợ con khiêng Thanh về nhà. Mãi sau gia đình tôi mới biết Thanh bị vỡ xương bánh chè
Chuyện xảy ra do Thanh đánh hụt con tôi rồi bị ngã, cả phố chứng kiến. Thế mà họ cấu kết với nhau dàn dựng vụ việc, làm hồ sơ sai sự thật để khởi tố con tôi sau khi không bỏ tù được tôi như ý muốn. Cuối cùng  Toà gọi xử 03 lần trả lại hồ sơ và án bị thối ! Dù án bị thối, thì cũng đến tháng 12/1991 mới xong.
VI- Vụ án thứ tư: Vụ đánh người xảy ra trong dân sự biến thành án     đánh nhau đưa vào xử trái pháp luật trong quân đội.
- Xảy ra ngày 30/7/1992 như sau :
Ngôi nhà 250 Tây Sơn là của mẹ và cô tôi tậu chung, nữa phần của cô tôi đã bán cho người ở thuê là Kiều Tiến Phố. Còn tôi đòi phần của mẹ tôi, được bản án giám đốc thẩm số 27/27/4/1992 công nhận. Phía bị đơn Kiều Tiến Phố không muốn thi hành án nên tòa án phải cưỡng chế. Mặc dù, hội đồng thi hành án đã thống nhất ký biên bản thi hành án Thi hành án cưỡng chế xong. Thực tế mới xây ngăn  phần nhà mặt đường + ngoài sân + trên gác tầng 2. Hội đồng THA đã giao phần diện tích đã thi hành án cho 2 bên (ngày 04/7/1992). Còn phần cầu thang chưa xây ngăn và chưa cắt mái trần phụ thuộc phia sau., phía bị đơn vẫn cứ tự tiện sử dụng phần diện tích nhà thuộc quyền sở hữu của tôi. Tôi đã có đơn trình báo với tòa án nhưng không được giải quyết. Chiều 30 tháng 7/1992, khi tôi bắc thang lên gác vướng cái trạn nhà ông Phố kê trên chiếu nghỉ thuộc phần diện tích sở hữu của nhà tôi, nên tôi phải nhờ khiêng trả lại chiếu nghỉ giữa cầu thang bên nhà Phố. Ngay lập tức cả nhà Phố gồm 4 người sang đánh vợ chồng tôi. Sau khi bị đánh đợt đầu chồng tôi đã nhảy từ ban công tầng 2 xuống ô văng tầng một chạy sang công an phường báo cáo, còn tôi bị đánh tiếp 2 trận nữa, đòn đánh hết sức dã man khiến tôi ngã gục, chết lâm sàng (đầu mặt, cổ, lưng bị thương tích nặng) tại ban công đã chia ngăn. Dân phố cùng với thợ đến làm việc cho tôi hô lên và đưa tôi đi bệnh viện cấp cứu.
Ngày 20/8/1992, công an quận Đống đa khởi tố vụ án bị can Nguyễn thị Hạnh (con dâu), Kiều Thanh Chương (con trai thứ 3) nhưng không xử lý kết luận điều tra dứt điểm về tội cố ý đánh người gây thương tích. Ngày 4/10/95, công an quận Đống Đa ra QĐ tạm đình chỉ điều tra vụ án và 2 bị can nói trên.        Ngày 18/12/95, VKS tối cao họp liên ngành thống nhất phục hồi điều tra chuyển quân đội giải quyết. Viện trưởng viện kiểm sát TP Hà nội ký phục hồi điều tra, giao vụ án cho quân đội theo QĐ ngày 20/12/95 (vì có đương sự trong quân đội). Ngày 3/9/1996, phó viện trưởng VKS quân sự trung ương (Nguyễn Đăng Kính) ra lệnh bắt giam tôi trong khi cả gia đình nhà Phố kéo sang đánh đập gia đình tôi không ai bị bắt.
Trong bản kết luận điều tra số 17/KS5/25/3/96 khởi tố 3 người Qúy (tôi), Phố, Chương và đề xuất giao Toản( chồng tôi) và Hạnh về UBND phường quản lý giáo dục (bỏ lọt tội phạm Sương). Đến khi xét xử sơ thẩm. phúc thẩm thì Toản, Sương là người bị hại còn lại xử cả bốn người Qúy, Chương, Hạnh, Phố.
Vụ án kéo dài 51 tháng (xảy ra từ 30/7/1992 – 23/10/96 mới đem ra xét xử). Và trong thời gian hơn 4 năm, tôi vẫn tiếp tục khiếu tố về những oan ức của mình nhưng không được giải quyết. Không hiểu các ông nắm quyền tư pháp và hành pháp từ trung ương đến địa phương họ móc nối cấu kết với nhau như thế nào, tạo hồ sơ không có căn cứ khách quan. Bên quân đội chứng thương cho Phố 13,6%, Xương 21% để vu vợ chồng tôi đánh. Gia đình tôi 2 lần yêu cầu nếu có chuyện xô sát khi họ tấn công đánh đập vợ chồng tôi, tỷ lệ chứng thương phải được bên dân sự giám định nhưng VKSQS vẫn chấp nhận chứng thương của bố con nhà phố và không bắt họ giám định dân sự (Theo thông tin tôi được biết, mọi thương tật gian dối đều do phòng điều tra VKS quận sự TW có công văn áp đặt thương tích cho Viện pháp y quân đội làm theo). Trong khi vợ chồng tôi phải giám định cả bên dân sự và pháp y quân đội (theo yêu cầu của VKSQS, sau khi thương tích xảy ra là 04 năm 3 tháng), kết quả chứng thương như nhau (thương tích của tôi là 24% , chồng tôi 21%), nhưng bi hạ từ thương tật vĩnh viễn xuống thương tật tạm thời. Việc hạ chứng thương của vợ chồng tôi của pháp y quân đội là không đúng. (Vì theo quy định sau 02 năm khám lại vẫn còn thì xếp vĩnh viễn. Chúng tôi khám lại bên Quân đội là đã sau 04 năm 3 tháng).
Vậy mà tòa sơ thẩm cũng như tòa phúc thẩm trong quân đội vẫn cố tình kết án tôi 1 năm tù giam. Tôi từ một nạn nhân bị đánh đập một cách phi lý, dã man, bị chết lâm sàng trở thành có tội nặng nhất theo tuyên án của tóa án quân khu thủ đô. Trong khi Sương người đánh tôi được xử là bị hại với thương tích giả 21%. Ba bố con nhà Phố còn lại hưởng án treo. Ở đây cần nói thêm, nếu tôi không khiếu tố về chứng thương giả 40.5% thương tật của Kiều Đức Chương do pháp y quân đội chứng theo công văn của phòng điều tra VKSQS Trung ương thì chồng tôi còn bị án 7 năm tù cho một con mắt dị tật bẩn sinh..
Điều đáng lưu ý ở đây là vụ án dân sự không liên quan quân sự ( Mặc dù Phố là người trong quân đội đã hưu). Tạị sao lại chuyển một vụ án dân sự vào quân sự để cấu kết với nhau hãm hại gia đình tôi ?.
Tôi khẳng định vụ án này có sự “bảo kê” của ông Viện trưởng VKS Tối cao Lê Thanh Đạo và Phó viện trưởng tối cao kiêm Viện trưởng VKS quân sự TW Nguyễn Đăng Kính trong thời gian này. Không hiểu vì lý do gì họ đã lạm quyền, làm trò ma quỷ, cố ý làm sai tố tụng, bắt người trái phép, đưa án dân sự vào quân đội để VKS quân sự TW cho phòng điều tra làm kết luận điều tra. Và áp đặt hồ sơ rồi đưa xuống cấp Tòa thấp nhất của quân đội là quân khu Thủ đô xét xử.
V-              Vụ án hình sự thứ năm: Trả thù, buộc án gán tội cho người tố cáo.
-         Khởi tố ngày 02/6/1996
Với đòn thù hiểm độc, tàn nhẫn vô pháp nói trên chưa đủ, khi tôi đang bị tù oan như trình bày trên thì ông Nguyễn Đăng kính ( khi đó là phó viện trưởng VKSTC – Khiêm Viện trưởng VKS QS TW) chưa thỏa mãn với những đòn thù trên, chưa yên tâm với những việc tôi tố cáo ông. Nên ông tìm cách vu cáo tôi từ việc tố cáo ông thành việc tố cáo các cơ quan nhà nước, rồi cấu kết với một số cán bộ đứng đầu cơ quan nhà nước (xem cáo trạng). Việc này đã được VKSTC ông Lê Thanh Đạo đồng ý giao cho VKS quân sự TW thụ lý vụ án theo điều 205a: “Lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm hại quyền lợi công dân là ông Kính” do hồ sơ áp đặt từ trên và giao cho Tòa quân khu thủ đô (tòa cấp thấp nhất trong quân đội) xét xử tôi sơ thẩm một năm tù, phúc thẩm 6 tháng tù. Như vậy, tôi bị cộng một năm ở vụ án (thứ IV) nói trên cộng với 6 tháng là 18 tháng tù giam.
   Trên đây là những tóm tắt sơ lược về những oan trái cơ bản xảy ra đối với tôi và gia đình tôi, một gia đình lương hiện đã bị bọn tham quan ô lại của chế độ liên tục gây ra suốt 30 năm biết bao tội ác tàn nhẫn. Tôi đã viết và gửi đơn không biết bao lần đến các cơ quan có thẩm quyền chưa được giải quyết theo quy định của pháp luật.
    Vậy tôi viết đơn này gửi đến các Đại biểu Quốc hội Khóa 14 – Đoàn ĐBQH Hà Nội, các cơ quan hữu trách nhà nước lần cuối cùng để xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Nếu có gì sai sự thật tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
           Đơn này kèm theo công văn kiến nghị
Chuyển đơn tới đ/c Chánh án TANDTC – Viện KSNDTC
1. Ủy ban TW MTTQ Việt Nam số 06/TD – MTTW-30/01/2008
2. Phó Chánh Thanh tra Bộ Công An số 685/05-XKT-26/2/2008
3. UB Tư pháp Quốc hội.12 có 2 CV số 4421+3241/UBTP.12-23/10/2009. Kính gửi đ/c Chánh án TANDTC giải quyết tố cáo và trả lời.
Phó Chánh án Đặng Quang Phương giao ban Thanh tra Tòa Tối cao giải quyết có biên bản làm việc nhiều lần, nhưng không ra quyết định thụ lý và đến nay vẫn chưa có văn bản trả lời tố cáo đúng hay là sai !

      Người tố cáo



                Phạm Thị Quý
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------------
                                                          Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2017
THƯ CẦU XIN, KÊU XIN, VAN XIN, …XIN
                                                          Người gửi:   Phạm Thị Quý (ĐT: 01697909766)
                                                                                  323-Trường Chinh – Hà Nội
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
-------------------------
                                                          Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2017
THƯ CẦU XIN, KÊU XIN, VAN XIN, …XIN
Người gửi:   Phạm Thị Quý (ĐT: 01697909766)
323-Trường Chinh – Hà Nội
Kính gửi:     - Toàn thể các Đại biểu Quốc Hội K14 - Đoàn ĐBQH Hà Nội
          Ông/Bà: ………………………………………………………………
-                      Và …………….. …………………………………………
Thưa Quí vị!
Tôi viết thư này, gửi đến từng người, tất cả 29 ĐBQH Đoàn Hà Nội. Lúc đầu gọi là “đơn kiến nghị”, rồi “thư kiến nghị”, …. Rồi… ngẫm lại, mấy chục năm trời rồi, đơn gì? - càng đơn … càng “đơn độc”, kiến gì? càng kiến nghị … càng thành “kiến bò” … Đúng là “Con kiến mà leo cành đa – Leo phải cành cộc leo ra leo vào. Rồi, … Con kiến mà leo cành đào – Leo phải cành cộc, leo vào leo ra”. Bế tắc hoàn bế tắc. Thôi thì…, thân lươn chẳng quản lấm đầu, thân kiến nề chi chuyện bò, ... quì vái, lạy lục. Lần này là tôi “xin”, xin đủ kiểu “kêu, cầu, van, lạy, quì … xin”. Mong quí vị hình dung tôi đang quì, bò, phủ phục trước mặt, dưới chân quí vị mà giải bày thân phận bọt bèo, nỗi niềm oan khuất và mong quí vị mở lòng nhân đức, nhón tay làm phúc “cứu một người phúc đẳng hà sa”, mà làm đúng trách nhiệm ĐBQH, là “đại biểu của dân” - vì dân, hiếu với dân. Tôi xin cắn cỏ - ngậm vành mang ơn suốt đời và đến tận kiếp sau.
Xin quý vị thương cho tai họa giáng xuống gia đình bởi một dây tham nhũng do ông Nguyễn Xuân Thanh, nguyên Chánh án Quận Đống Đa thăng chức lên Chánh án TP hà Nội và ông Phạm Quang Khải- nguyên Việt trưởng VKS Đống Đa cầm đầu, bằng âm mưu thâm hiểm, thủ đoạn độc địa, tạo dựng các vụ án hình sự và cả dân sự trái pháp luật gây oan sai, xâm hại quyền sống của gia đình tôi. Cụ thể:
1. 108 vụ khủng bố, đánh người, áp đáo tại gia, chửi bới “dám kiện nhà tao”- đổ phân tươi vào cửa nhà ngày mùng 1 đầu tháng- ném phá vỡ biển hộp may đo Anh Thư-viết hai chữ “coi chừng” to tướng lên cửa hàng để đe dọa- đánh trộm con tôi bất thình lình khi đang đi xe đạp tới gần trụ sở công an Phường (321 phố Tây Sơn) Trưởng công an phường mới nhậm chức cho làm hồ sơ rất cụ thể mà quận chỉ cho xử lý dân sự - khi đền bù thì trừ đuổi sang các vụ hình sự bịa đặt, mà chúng tôi đang KNTC việc bị áp đáo tại ra, lao gỗ vào nhà làm vỡ đầu tôi, tại sao lại xử hai bên cùng chịu tội “gây rối trật tự công cộng” ?  108 biên bản hồ sơ phường chuyển quận không xử lý với lý do quá nhỏ.
Từ năm 1987-1995, sau khi có bài thơ khẩn cáo- 27/9/1994 ông Bí thư Thanh ủy Phạm Thế Duyệt xuống quận làm việc với quận trưởng công an Nguyễn Đình Tâm, mới dần chấm dứt việc khủng bố gia đình tôi.
2. Năm vụ án hình sự, trong đó 4 vụ áp đặt thành án chính trị, ngấm ngầm, chỉ đến khi luật sư đọc mới biết là hồ sơ chính trị.
3. Năm vụ án dân sự và 15 vụ khiếu nại tố cáo tồn đọng. Do tồn đọng, mà phát sinh dần nay thành ra tới 30 vụ. Tất cả do độc tài, độc đoán, độc quyền, cửa quyền, không cấp sao hồ sơ nhà đất thật (mặc dù đã được tòa cho phép), để tiếp tục vẫn lưu hành hồ sơ đất giả mạo (mặc dù đã công nhận là giả mạo). Quyết tâm, quyết chí “om”, không giải quyết dứt điểm đơn tố cáo ông Nguyễn Xuân Thanh và ông Phạm Quang Khải hại chúng tôi.
4. Đưa án phạt tù giả mạo vào tàng thư để vu khống có tiền án và án phúc thẩm bị hủy đương nhiên không nhập vào tàng thư để tính án phúc thẩm bị hủy là hai tiền án.
5. Móc nối theo đường dây Kiểm sát từ Quận lên Trung ương để đưa án dân sự vào quân đội, mượn tay quân đội hãm hại vợ chồng tôi với những thương tích giả mạo -sự việc bịa đặt. Biến việc bốn người đánh một người thành đánh nhau và người bị thương tích tới 24% thương tật trở thành đầu vụ - người duy nhất bị tù ngồi. Đồng thời phát sinh vụ hình sự thứ năm do mười hai bài thơ nói lên nhân tình thế thái trong việc kêu oan khiếu nại tố cáo những cán bộ ngành Kiểm sát trong và ngoài quân đội- thành tội 205a “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm hại danh dự quyền lợi của cơ quan nhà nước…”
6. Móc ngoặc với công an huyện Từ Liêm ra quyết định truy nã tôi trái thẩm quyền để tăng tội trong hồ sơ vụ án.
7. Gây khó khăn trong việc cấp giấy xóa án tích. (xem đơn……………………….)
Một đời người, bấy nhiêu năm, bao nhiêu chuyện… còn đâu là đời !
Những việc trên đây tôi sẽ trình bày riêng ở một đơn khác gửi kèm theo. Dưới đây tôi chỉ trình bây về vụ dân sự thứ năm cho khởi kiện bằng giấy tờ giả mạo trái pháp luật.
Phát sinh - tồn đọng, lại phát sinh – lại tồn đọng. Tất cả xuất phát từ việc độc tài, độc đoán, độc quyền, cửa quyền không cấp sao hồ sơ nhà đất (mặc dù đã được TA cho phép) để tiếp tục lưu hành hồ sơ nhà đất giả mạo (mặc dù đã công nhận là giả mạo) để cố tiếp tục giữ bản án được thụ lý xét xử bằng các hồ sơ tạo dựng giả mạo đó. Để đạt mục đích đó, họ quyết tâm, quyết chí “om” không giải quyết tố cáo khiếu nại của tôi đối với “thủ phạm” Nguyễn Xuân Thanh cùng đồng bọn.
Ở vụ dân sự thứ 5 này,13 năm tôi phải theo đuổi quan sát, điều tra, thu thập các chứng cứ chứng minh các hành vi cố ý làm trái pháp luật của Hành pháp- Tư pháp và cuối cùng hé lộ ra các bộ mặt “ ma ám”, “ ma ác” lại là ở Quốc hội Tp Hà Nội - ở Cục I TTCP và Vụ dân nguyện của Quốc hội. Đặc biệt ở Phó CTQH K12, K13, K14 Uông Chu Lưu  - Nguyên Bộ trưởng bộ Tư Pháp(2002-2007).
Nhắc đến ông Uông Chu Lưu, đến quê hương Hà Tĩnh của ông, liên tưởng đến cụ Nguyễn Tiên Điền, chợt nảy ý so sánh mình với thân phân nàng Kiều. Rõ là,
Tôi gian truân, khổ não hơn Kiều.
Ba tù, bẩy tội… tôi tiêu một đời !
          Không ngoa chút nào. Kiều có bị án, bị tù như tôi đâu. Tôi bị hành hạ từ khi còn trẻ, khỏe, qua mấy chục năm, nay đã tàn tạ, thành cụ bà bẩy mươi. Đúng là tiêu một đời ! Mà bây giờ đã thoát đâu !
Phát sinh - tồn đọng, lại phát sinh – lại tồn đọng. Tất cả xuất phát từ việc độc tài, độc đoán, độc quyền, cửa quyền không cấp sao hồ sơ nhà đất (mặc dù đã được TA cho phép) để tiếp tục lưu hành hồ sơ nhà đất giả mạo (mặc dù đã công nhận là giả mạo) để cố tiếp tục giữ bản án được thụ lý xét xử bằng các hồ sơ tạo dựng giả mạo đó. Để đạt mục đích đó, họ quyết tâm, quyết chí “om” không giải quyết tố cáo khiếu nại của tôi đối với “thủ phạm” Nguyễn Xuân Thanh cùng đồng bọn.
Ở vụ dân sự thứ 5 này,13 năm tôi phải theo đuổi quan sát, điều tra, thu thập các chứng cứ chứng minh các hành vi cố ý làm trái pháp luật của Hành pháp- Tư pháp và cuối cùng hé lộ ra các bộ mặt “ ma ám”, “ ma ác” lại là ở Quốc hội Tp Hà Nội - ở Cục I TTCP và Vụ dân nguyện của Quốc hội. Đặc biệt ở Phó CTQH K12, K13, K14 Uông Chu Lưu  - Nguyên Bộ trưởng bộ Tư Pháp(2002-2007).
Tôi biết, đối với người khác chứ đối với quí vị, chẳng đường đột gì khi tôi tự nhiên lại nhắc đến cái tên Uông Chu Lưu. Tuy nhiên, xem đoạn dưới Quý vị sẽ rõ là Ông Lưu đối với tôi như “ma ám” mà “ma ác”, ám hàng chục năm trời và nay vẫn ám, ít nhất là về tâm lý. Tôi oán ông ấy. Sống để bụng, chết mang đi. Chết đi, nếu có tòa “Diêm vương - Địa phủ”, tôi sẽ kiện. 
Mong các vị “động tâm” cố xem hết thư này, rồi “động não” suy xét và “động thủ” giúp tôi lần này. Cho phép tôi được nói như nói lời cuối, được nói như không bao giờ được nói nữa, nói cho động đất, thấu trời, người không muốn cũng phải nghe. Và vì thế, thư này sẽ hơi dài, thậm chí có chỗ nói đi, lặp lại. Xin quí vị thông cảm.
Lần này, tôi khẩn thiết “xin”, “xin” … vạn lần “xin”: Tất cả, từng cá nhân ĐBQH thuộc Đoàn Hà Nội, độc lập từng người, trước hết là Trưởng đoàn, Thưởng trực chuyên trách đoàn, và đặc biệt từng cá nhân ĐBQH, không ỷ trách nhiệm cho Trưởng, Phó, Thường trực Đoàn, không ngầm phân công nhau, cắt cử người “đối mặt” với vấn đề, tự tỏ rõ phẩm chất, bản lĩnh của riêng mình, có ý kiến cá nhân. Tôi cần,  rất cần, nên cầu xin ý kiến, sự can thiệp của cá nhân từng ĐBQH. Đòi hỏi này đúng với “Luật Hoạt động Giám sát Pháp Luật của Quốc Hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH”, phải đưa vào chương trình hoạt động kiểm tra của Đoàn (như trả lời miệng của bà Hà, tôi nhắc lại trong đơn (04/03/2009). Mong các vị thực sự thực thi quyền, trách nhiệm giám sát Pháp Luật của ĐBQH của chính mình đúng theo luật trên đối với vụ việc của tôi với tinh thần theo “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, sống, làm việc theo pháp luật, “luật bất vị thân”, mọi người bình đẳng trước pháp luật, không kể cao thấp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn hai ĐBQH Nguyễn Quốc Bình và ĐBQH Nguyễn Hữu Dược đã chuyển đơn – 10/5/2017 của tôi tới Tổng cục trưởng TCTHADS – Bộ tư pháp – mong rằng, thư kiến nghị và các đơn cũ chưa được giải quyết, trả lời tôi gửi đủ lần này sẽ được hai ĐBQH quan tâm  giúp đỡ cho ý kiến để phó CTQH Uông Chu Lưu có ý kiến chỉ đạo choGiải Quyết dứt điểm việc bế tắc 13 năm hết sức bất công vô lý của tôi !
Tôi cũng nhận được phiếu chuyển đơn số 334/PCĐ- ĐĐBQH Hà Nội -30/5/2017, trong khi tôi có nhiều đơn tố cáo Cục trưởng- Phó Cục trưởng Cục THADSHN- Họ là bị đơn. Kính đề nghị lãnh đạo ĐĐBQH Hà Nội cho tôi xin kết quả báo cáo, trả lời từ Cục chắc chắn Cục không dám lờ việc phải báo cáo tới lãnh đạo ĐĐBQH Hà Nội như đối với các tổ chức xã hội, các ĐĐBQH đã kiến nghị chuyển đơn suốt 13 năm nay, giống như các công văn của Tổng cục trưởng Tổng Cục THADS- bộ Tư pháp gửi trả lời Báo Hà Nội Mới.
Còn lại 9 ĐBQH tôi gửi đơn không có hồi âm! Mong được Quý vị có ý kiến GSPL của mình lần này – Xin chớcô phụ lòng tin của Dân khi người dân đã có đơn gửi đích danh ĐBQH – luật hoạt động GSPL của Quốc Hội cũng được quy định rất rõ việc này!
Kính thưa Quý vị ĐBQH Hà Nội,
Trong các tập đơn cũ, tài liệu gửi kèm theo, xin đặc biệt lưu ý quí vị các CV, báo tin số 189/BT- ĐĐBQH 12-30/12/2009 của Văn phòng Đoàn ĐBQH.12, của ĐB Nguyễn Đức Nhanh, Nguyễn Viết Thịnh. Đó là những căn cứ để tôi tố cáo việc Lãnh đạo ĐBQH.12 ban hành VB có nội dung trái luật Hoạt động GSPL của Quốc hội - ĐBQH tại thông báo số 27/TB-ĐĐBQH.12 (24/12/2009). Có nội dung đại ý giành độc quyền xử lý đơn của dân cho lãnh đạo đoàn mà thôi. Nghĩa là công khai thô bỉ, thô bạo tước “QUYỀN GIÁM SÁT ĐỘC LÂP CỦA ĐBQH” – hoàn toàn trái luật “HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI” nói riêng, và kiến thức nhân văn sơ đẳng vể chế độ “dân chủ cộng hòa” và “cộng hòa XHCN” nói chung. Là ĐBQH, là lãnh đạo đoàn, mà đoàn Thủ đô trung tâm văn hóa cả nước mà “văn hóa” cỡ ấy thì trâu, bò, chó, lợn cũng phì cười và thượng đế, phật thánh cũng phải rơi nước mắt.

Về Bà Nguyễn Thị Hồng Hà

Tôi có đủ lý do để nói rằng chính Phó đoàn ĐBQH HN Nguyễn Thị Hồng Hà đã lợi dụng chức phó Chánh VP UBND HN kiêm nhiệm, giữ lại, không cấp, giao cho tôi Văn bản chính thức nội dung “ Điều chính Nhà nước” của Ông Vũ Hồng Khanh ký - có lợi cho tôi là “Giao cho Sở TNMT cấp sao tài liệu nhà đất theo Bản Án hộ số 02/DS, 28/06/1962 xong trước ngày 30/09/2007”, mà thay bằng VB 1534/VP (21/08/2007) với nội dung “ giao Sở TNMT giải quyết theo thẩm quyền”- không có ấn định thời gian phải cấp xong của Văn phòng UBND HN dưới quyền bà Hà, trong tay bà Hà, Bà Hà mang trách nhiệm “người đứng đầu”. Thưa quí vị, đó đích thực là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, man trá, ngụy tạo hồ sơ, làm sai lệch hồ sơ và sự thật, … là phạm pháp. Kiểu “cơ cấu” một người có chức sắc chính quyền – được hành pháp, lại vừa là ĐBQH – lập pháp, có quyền giám sát hành pháp kiểu đó dễ sinh ra giống biến thái, quái thai, nửa dơi - nửa chuột, sẽ vứa đá bóng vừa thổi còi, thậm chí trực tiếp chặn bóng bên này và mớm bóng, che chắn ghi bàn cho bên kia.     
Sau này, tôi mới biết cái “bóng cớm cha” đã đẻ ra “bóng cớm con”, “bóng cớm xa” đã ra “bóng cớm gần”, ám cớm trực tiếp đối với các ĐBQH K12 Đoàn HN, thao túng cả Đoàn là Phó trưởng Đoàn Nguyễn Thị Hồng. Bà Hà đã ra tay, trực tiếp “nhúng chàm” làm những điều mờ ám, trái pháp luật, trái đạo đức, mất nhân cách ảnh hường đến uy tín ĐBQH.12. Khỏi phải luận về động cơ. Về hành vi, lợi dụng chức vụ kiêm nhiệm là Phó VP UBND Tp HN, bà Hà đã tác động, khiến ông Phó CT UBND HN Vũ Hồng Khanh chỉnh, sửa, bóp méo, xiên xẹo, lần giải quyết trước đúng -  lần giải quyết sau thành sai. Dưới bàn tay bà Hà, VB số 9450/UBND-BTCD 31/12/2015 thay vì thể hiện chỉ đạo của Phó CT Vũ  Hồng Khanh (15/12/2015, trì hoãn 16 ngày). Đặc biệt tinh vi, quỷ quyệt là thay ĐCNN (điều chỉnh nhà nước) thành BTCD ( ban tiếp công dân). Hơn thế, đổi việc giao quyền chủ trì xử lý cho Thanh tra Thành phố thành cho Sở TNMT mà chính sở TNMT là “bị đơn” là “tội phạm” cố ý ra các văn bản sai sự thật, sai hồ sơ Nhà đất lưu trữ của Thành phố, sau khi đã đối chiếu hồ sơ nhà đất lưu trữ năm 2010 rồi. Rõ là cố tình vi phạm pháp luật, tội danh là “ cố tình lợi dụng trách nhiệm, tín nhiệm làm sai lệch nội dung hồ sơ với động cơ xấu, gây hậu quả nghiêm trọng”.
 Nghiêm trọng cho dân như tôi chẳng thấm gì đối với uy tín của Đàng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, cả thể chế. Theo mạch ấy, VB số 4388/STNMT (23/07/2015) ở trên ghi rõ địa chỉ xin cấp sao đúng như HSNĐ lưu trữ mà:
-Về hình thức, hệt như thực hiện “cấp sao”, như là “giải quyết khiếu nại”, vẻ như là bác bỏ CV 1044/NĐ (15/09/1992) và thực hiện “cấp lại”, nhưng thực tế vẫn cố tình bám câu chữ cơ bản của nó để cố giữ “nội dung sai” gây ra khiếu nại. Để che mắt, lấy thêm 3 chữ “Ô Chợ Dừa” từ HSNĐ gốc đính vào địa chỉ. Thâm ý là tăng mức phù hợp, giảm mức giả mạo “của địa chỉ” tức là của VB, mà lừa trên, bịp dân. Họ chỉ bịp được những kẻ cấp trên “muốn được bịp” (vì cũng muốn bóp meo, kéo dài. Nhưng, trò ranh ấy lừa sao được dân.
Họ đã cố tình xuyên tạc sự thật bằng cách trơ tráo, trắng trợn, tôi xin cấp sao hổ sơ gốc ở số 10 Thái Hà và 25 B Ô Chợ Dừa thi ở dưới văn bản số 4388 Sở lại cấp sao ở hai ngôi nhà ở phố Tây Sơn ( sao y bản chính CV 1044/NĐ- 15/9/1992).
Năm 2009, UBND HN có 2 CV gửi TTCP (Phó CT Vũ Hồng Khanh ký) (1) 2955/UBND-TNMT - 10/04/2009 và (2) 6072/UBND-TNMT (30/06/2009). Hai CV đó Văn phòng UBND Tp , tức là chỗ Bà Hà trình ký. Với quyền “đầu bếp”, với tài xào nấu, gia giảm, mắm muối, tiêu ớt và tác động của bà Hà, nội dung 2 CV đó trái ngược với ý định ban đầu của Ông Vũ Hồng Khanh và theo chiều hướng bẻ queo, quyết chống đối thực hiện VB số 595/TTCP.

Đến ông Bùi Nguyên Súy.

Tôi có được bản sao 2 CV trên của UBND Tp Hà Nội có dấu “CV đến” của TTCP, có bút phê ở lề trái:K/c anh Súy để chỉ đạo, 07/07/2009)”. “Chỉ đạo” nghĩa là lãnh đạo, chỉ huy đường lối, chiến lược. Súy đồng nghĩa của Soái. Đúng ông là Nguyên Soái tổng chỉ huy “trận chiến bất cân sức này”. Ngẫm lại mới thấy ông “mẫn cán”, “hy sinh hết mình” trong việc câu kết bọc đỡ cho hành vi làm sai lệch văn bản số 595/ TTCP biến hai chữ VP thành V6.
 Rồi hình như đã thông báo trước cho nhau, khi tôi sang Tiếp dân khiếu, kêu về nó, Bà Hương truy hỏi như thể tôi là “tội phạm” chạy chọt đơn vị V6 để có văn bản số 595/ TTCP- V6- 25/3/2006.
Rõ ràng là, chính kẻ phát hành văn bản đã cố tình đổi VP thành V6 để gây hiểu làm cho “ cánh hầu” như bà Hương có thể gây nhiễu. Nghĩa là những kẻ phát hành văn bản đó có “ tội lợi dụng chức vụ, uy tín làm giấy tờ giả mạo, tức là làm sai lệch hồ sơ ” ở đây là làm sai lệch văn bản 595/TTCP – VP – 25/3/2009.
Văn phòng TTCP ém nhẹm CV 6072. Theo Phiếu HD 189/ĐBQH (30/12/2009), truy mãi không thấy ở TTCP. Tôi khiếu kiện khắp nơi, buộc bà Hương phải sang Cục I – TTCP tìm, mới thấy và đưa cho tôi bản sao. Ngay lập tức, ông Súy bắt bà Hương đòi lại. Tôi trả lại, vì đã phô tô rồi.
Đó là việc tôi đã kêu cứu, thưa trình việc có các sai phạm pháp luật rõ ràng, có thừa chứng cứ, mà bên hành pháp cứ “trơ lỳ” không giải quyết, để bế tắc nhiều năm. Đã cúi, quì, bò, lạy … kêu cầu, van xin …, tôi đâu dám láo. Nhưng “sự thật mất lòng”. Tôi nói “sự thật”, không tránh khỏi “mất lòng”. Chỉ mong quí vị “bề trên trông xuống” mà “mở lượng hải hà” tha cho “dân đen, con đỏ - thân lươn, phận kiến”. Sự thật cay đắng là Tư pháp - Hành pháp muốn, quyết “trơ lỳ”. Nhưng “trơ lỳ” được vì đâu? Chủ quan, họ tự biết “miệng quan có gang có thép”, lại có nhiễm lại thói “miệng quan trôn trẻ”, lời dân chỉ là “nước lã ao bèo”. Khách quan, chỉ có Quốc hội nói chung, từng ĐBQH nói riêng mới có “quyền lực tối cao”, mới là nước cường toan, nước thánh, lửa lò đối với với họ … Nhưng, lại cơ hồ như im lặng, làm ngơ, tắc trách, không làm hết trách nhiệm, bổn phận, không thấu đáo, không đến nơi đến chốn, đến cùng. Thực tế, thời gian qua, QH K12 & K13 nói chung và tập thể cũng như từng cá nhân trong Đoàn ĐBQH Hà Nội nói riêng không phát huy được “quyền lực cao nhất” của mình, không thực hiện đúng trách nhiệm giám sát, đôn đốc tư pháp - hành pháp, hành chính từ TW đến TP Hà Nội, Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, nên vụ việc này không được giải quyết đúng pháp luật, mặc tư pháp - hành pháp tự tung, tự tác, mà “trơ lỳ”, bất chấp pháp luật.
Cụ thể, cái đang tồn đọng, bế tắc hiện nay là: 
- Tòa án các cấp đã sử dụng, và cho lưu hành giấy tờ giả mạo hồ sơ gốc nhà đất, các công chứng, chứng thực sai sự thật, trái pháp luật, bất chấp Hiến pháp – Pháp luật. Đặc biệt là sau khi Tổng TTCP đã có văn bản số 595/TTCP-VP (25/3/2009) kiến nghị phải thu hồi, hủy bỏ chúng. Suốt thời gian qua họ không từ thủ đoạn bẩn thỉu, mánh khóe bỉ ổi, hành vi thối tha nào, để quyết không “thu hồi”, “hủy bỏ” chúng, cứ tiếp tục giữ giá trị bản án được dựng lên từ các hồ sơ giả, sai đó. Họ ngồi xổm lên bộ luật Hình sự!
- TATC nhận đơn của tôi và tiếp nhận 17 chứng cứ phản bác các hồ sơ ngụy tạo đó từ ngày 28/5/2012. Vì không bác bỏ được các chứng cứ đó, không thể ra văn bản bác bỏ, nghĩa là phải thừa nhận, nhưng không chịu có VB chính thức công nhận, để trên thực tế là “không sử dụng” tức là không công nhận. Bởi vì, thừa nhận chúng thì theo luật, phải kháng nghị bản án để xét xử theo thủ tục tái thẩm. Nội dung kháng án (đơn và chứng cứ nói trên) và khiếu nại việc không xử lý chứng cứ và trả lời đơn trên, không thông báo kết quả cho mấy chục cơ quan, cá nhân “Giám sát Pháp Luật” (có can thiệp do tôi có đơn kiến nghị) cũng bị “lờ”, không giải quyết, trả lời, thậm chí không “hồi âm” tối thiểu gọi là có. Như thế, không “trơ lỳ” thì là thứ gì?
Nhưng, họ “trơ lỳ” được do đâu?
Trước hết và cuối cùng chính là vì quý vị ĐBQH K12&13. Quí vị đó đánh trống bỏ dùi, chỉ làm chiếu lệ, cho phải phép, cho lấy có, đãi bôi, nửa vời, … Cụ thể, chỉ “kính chuyển” và hướng dẫnthuộc thẩm quyền …”, còn sau đó, nó lên bàn, chui ngăn kéo hay vào sọt rác … Mặc! “thẩm quyền” thành “toàn quyền” vì “cậy quyền”, “độc quyền”, “chuyên quyền” … phản dân chủ, trái hiến pháp, sai pháp luật, cũng … Mặc! ĐBQH hết trách nhiệm. Đó là chưa kể chuyển đơn và hướng dẫn kiểu “xua chó vào bụi rậm”, rằng “thẩm quyền giải quyết thuộc về … chính bị đơn (bị kiện vì đã làm sai và đang “trơ lỳ” không chịu giải quyết). Tình huống ấy, “bị đơn” hiểu là mình được “nể”, “cầu thủ” hiểu là được “trong tài thiên vị” tha hồ chơi bẩn, “phạm luật”, vì chắc chắn sẽ được tha, sẽ được thắng. Lỗi cụ thể - đầy. Lỗi khái quát là “trơ lỳ” rất thô bỉ, thô bạo, lộ liểu, ai cũng thấy, khán giả la ó có ăn thua gì – trọng tài vẫn tha và được tha. Chính trọng tài làm hỏng trận đấu. Bị đơn tự hiểu được thừa nhận “thẩm quyền” là có được “toàn quyền”, nghĩa là mặc sức làm đúng, làm sai … và dĩ nhiên là tiếp tục “trơ lỳ”. Dù sao, như thế chúng tôi còn có cớ tiếp tục đòi giải quyết. Tệ hại hơn là, nhiều cá nhân ĐBQH nhận được đơn, thư … mà “lờ” luôn, không báo nhận được, nói chi đế “động thủ” chuyển đơn, ... Hành vi, thái độ như thế của dân thường đã bị coi là bất lịch sự, vô văn hóa, quá bẩn thỉu, huống hồ là ĐBQH, toàn là “thức giả”. Đó là bất nhân, bất lương, “vô liêm sỉ” - không biết xấu hổ với cương vị, với lời thề ứng cử. Vô đức, vô đạo, thối nát, tiêu cực, … không xứng đáng.   
Thực lòng, tôi rất đau đớn. Bởi vì đã “cầu, kêu, lạy, van … xin”, mà nén nổi cảm xúc, không tránh được việc làm mất lòng quí vị, xúc phạm đến các vị “tiền nhiệm”. Tôi tự thấy là hơi thô thiển. Cực chẳng đã, tôi phải nói ra “sự thật mất lòng” nói trên. Mong Quý vị ĐBQH TP Hà Nội khóa này lượng thứ, thương cho thân phận đàn bà, hết “liễu yếu đào tơ” lâu rồi, đã “cổ lai hy”, thành “mụ khọm già” rồi, có vẻ béo mập mà lắm bệnh, nhiều tật, dặt dà, dặt dẹo, quặt quẹo, lụi tàn.
Đã mấy chục năm bị nhiều oan trái, chịu nhiều tổn thất vật chất, sức khỏe và nhất là tinh thần. Ăn không ngon, ngủ không yên. Tổn thất ấy không gì, không ai bù đắp được. Tôi chỉ mong kêu thấu được, thuyết phục được quí vị và qua quí vị tác động được đến các bậc chức sắc cao hơn của QH khóa này - thực sự tự trọng, dám mạnh mẽ, dám ra mặt bảo vệ luật pháp, đem lại sự công bằng luật pháp cho tôi, bảo vệ cuộc sống yên lành của tôi vì vẫn đang tiếp tục bị đe dọa. Về phần tôi, tôi cam đoan từ trước đến nay, và cả về sau này, việc khiếu kiện của tôi rất nghiêm túc, đúng đắn, dám chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thực lòng, tôi chẳng muốn tố cáo ai cho mất công, mất sức, mất tình. Nhưng từ một cá nhân Nguyễn Xuân Thanh (nguyên Chánh án TAND Q. Đống Đa), vì cố tình làm sai, lập hồ sơ giả, dựng lên vụ án sai, … tôi bị oan, ức - phải khiếu kiện! Do cương vị của ông Thanh đáng để bảo vệ uy tín, đủ sức ảnh hưởng để tự kết thành bè lũ, tự nối thành đường dây, … rồi do “nể nang”, “tiêu cực”, rồi được cấp trên che đỡ, làm “cái sảy nảy cái ung”, phát sinh nhiều lên, phát triển to ra. Rồi cấp trên đã nhỡ nước, thành “tay đã nhúng chàm” thì “đâm lao phải theo lao”. Khốn khổ thay, thế cuộc thành chính “bề trên” phải che đỡ cho chính mình, càng nhiều những “nể nang”, “né tránh” … đến mức trơ tráo. Thật như định mệnh an bài, như trời bắt trả nghiệp, “kẻ bề trên” đó từ bỏ cái cao quý “cây cao bóng cả” che chở cho “thảo dân” lại chọn cái thấp hèn làm “cây cao bóng cớm”, che lấp “mặt trời chân lý”. Và “bề trên” to đến mức bề dưới tự biết “nhìn mặt”, “nể mặt”, ngầm “hiểu ý” trên, … liều mình cứu chúa, và chẳng ai dám làm đúng chức trách mà cảm thấy có thể đụng chạm, phương hại đến “bề trên”. Họ cứ phải làm sai, nói sai mãi. Thậm chí, có người nói ra mồm “… không được, vì sợ chạm đến …“vị”… ấy”. Con giun xéo lắm cũng quằn! Tôi đành phải tố cáo, khiếu kiện và tiếp tục tố cáo, khiếu kiện.
Tôi đã KNTC cả 5 ông Chánh án TANDTC, Viện trương VKSTC, Bộ trưởng Tư pháp, Tổng cục trưởng TCTHADS, Chủ tịch TP Hà Nội, v/v không thực hiện văn bản số 595/TTCP của Tổng Thanh tra Chính phủ - không cho đình chỉ vụ án DS sử dụng giấy tờ giả mạo nói trên và để 55 năm trời không chịu sao cấp cho chúng tôi hồ sơ gốc nhà đất bị mất (theo bản án hộ số 2/DS – 28/6/1962) và do vậy, phát sinh 15 vụ việc hành chính.
Theo tôi biết, vụ việc hành chính thuộc thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ. Và tôi biêt rõ: Giải quyết khiếu nại đối với Chánh án TATC, Viện trưởng VKSTC của Quốc hôi, trực tiếp là Ủy Ban Tư Pháp – Pháp luật của Quốc Hội, mà trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu thuộc ông Uông Chu Lưu, Phó CTQH Phụ trách quản lý Tư pháp. Là ĐBQH, quí vị có quyền can thiệp, tham gia, bàn thảo. Xin đừng thờ ơ!
Tôi cũng được biết quy định của Mặt trận TQVN là: Nếu cơ quan có thẩm quyền không giải quyết KNTC, thì sau 3 tháng, ban Thường trực Mặt trận TQVN sẽ có công văn đôn đốc.
Việc KNTC của tôi ban Thường trực Mặt trận TQVN có tới 3 lần công văn đôn đốc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn không thèm giải quyết, trả lời!
Thậm tệ hơn ban Thường trực Mặt trận TQVN còn phải ra thông báo cho công dân cả nước rằng:
Từ 1/1/2015 Mặt trận TQVN không có văn bản kiến nghị, chuyển đơn cho công dân nữa! Phòng tiếp dân chuyển vào số 1 Ngô Thì Nhậm và chỉ hướng dẫn miệng cho công dân”
Luật khiếu nại- Luật tố cáo còn đó, không hề sửa bỏ điều luật quy định mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp - các tổ chức chính trị xã hội phải theo dõi – GSPL bằng văn bản công khai với cơ quan có thẩm quyền về nội dung KNTC của công dân.
Vậy mà ông Nguyên Thiện Nhân Chủ tịch ban Thường trực Mặt trận TQVN cũng cứ chấp nhận thi hành việc làm trái pháp luật trên. Cho nên, chốt lại dân chỉ có trông vào  Quốc hội – ĐNQH trong công tác GSPL – bênh vực công dân – đấu tranh với những bọ tham quan vô lại vi phạm luật pháp.
Phó CTQH Uông Chu Lưu, Ủy Ban Tư Pháp QH, Thường vụ QH  và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng … tiếp nhận 7-8 lượt CV Kiến nghị, chuyển đơn từ Đài THVN (VTV1), Uỷ Ban thường trực MTTQVN – Các ĐBQH – Cơ quan nhà nước… Tất cả đều không được giải quyết, trả lời! Bên kiến nghị, chuyển đơn thì “đánh trống bỏ dùi”, giữa chừng bỏ cuộc. Kiên nghị, chuyển đơn rồi buông luôn, không cần phản hồi, không đòi “trả lời”, để “sống chết mặc bay”, nói chi giám sát, đôn đốc thực hiện. Rất họa hoằn cũng có nhận được “trả lời”, thì dù sơ sài, vòng vo, né tránh, sai trái … vẫn chấp nhận, không hề phản biện, cắt cầu luôn. Thế là có rồi – hết trách nhiệm. Dân lại kiện cái “trả lời” sai trái đó và lại phải “leo vào” để mà “leo ra”. Đúng là cái “cành cộc” và “con kiến kiện củ khoai”. Bế tắc.   
Tôi đã quen nghe giải thích rằng bế tắc, bất cập, vv. và vv. … là do “lỗi cơ chế”. Trong vụ này, tôi thấy cơ chế quá tốt, văn luật quá đủ mà vẫn bế tắc đúng như dân gian nói “Ỏ giữa rừng luật mà sống luật rừng”. Do đâu? Nghiệm và ngẫm hàng mấy chục năm nay, tôi thấy do yếu tố “con người”. Con người trong bộ máy Đảng – Quốc hội, Nhà nước, đoàn thể xã hội, … trong cả “hệ thống chính trị”. Nhiều kẻ bất nhân, bất lương quá. Đảng đã thừa nhận bọn xấu đó trước đây là thiểu số, rồi “số ít”, rồi dần thành “bộ phận” (nghĩa là từ lẻ tẻ mà đã có cấu kết), rồi từ “bộ phận nhỏ” thành “bộ phận không nhỏ”, rồi tiến lên “nhóm”, “nhóm lợi ích”, “nhóm ..”, “bè lũ …”. Như thế không phải lỗi “cơ chế” mà bọn chúng đã làm cho thành “lỗi cơ cấu”, “lỗi hệ thống”, “lỗi thể chế”, lỗi gì… gì … đó.   
Từ Nguyễn Xuân Thanh (nói trên) di căn sang ông Hoàng Sĩ Thành. Với chức Tổng Cục Trưởng TCTHADS (Bộ TP), ông Thành nhận đơn tôi tố cáo “thi hành án sai” – trái với Điều 23-Luật THADS-2008, mà bất chấp, cứ “lặng lờ” và công khai cho THA Hà Nội ra tay thi hành án nhiều lần (đều bị tôi chặn đứng). Sau mỗi lần như vậy, ông Thành lại nhận được đơn của tôi và “bị nhận” mấy chục công văn GSPL nữa. Bất chấp, ông Thành không giải quyết và vi phạm tiếp. Tức là cố tình làm trái Điều 37 – 48 luật THADS-2008, mà theo đó, phải trả vụ việc khiếu nại về cho tòa án để TA giải thích bản án và chịu trách nhiệm. Trái lại, ông Thành sao gửi các CV (số 647 & 2257/TCTHADS - GQKN – 24/7/2014) báo cáo, xin ý kiến UB Tư pháp, và Phó CT QH Uông Chu Lưu. Trả lời cho Báo Hà Nội Mới biết người bao che là ô Lưu để lần sau đừng bênh dân nữa. Ranh quá trời ranh. Như thế vừa “đẹp lòng” ông Lưu vừa “đểu ngầmđẩy Lưu ra dơ mặt chịu trận thay, nghĩa là tôi phải mất công “đấm bị bông”. Ông Thành biết chắc là ô. Uông sẽ cho nó “chu lưu” vòng vo luôn. Ông Thành cùng hệ thống “hạ cấp” lấy cớ đã xin ý kiến chỉ đạo của ông Lưu phải chờ trả lời mà chưa có trả lời nên có quyền “trơ lỳ” không giải quyết. Như thế, rõ là trách nhiệm lại rơi vào đich thân ông Lưu. Tệ mạt hơn thế, ông Thành cũng không “yên phận chờ” mà nổi máu “quyền lực” hiếp đáp dân, nổi máu “nịnh bợ”, ngầm xúi giục hay làm ngơ để Hà Nội “thi hành án” 5 lần, bảy lượt, hy vọng bề dưới “cứ làm bừa” biến thành “sự đã rồi”. Rõ là, ông Thành đã khéo “lựa, lách, luồn” chui vào cái “bóng cả” Uông Chu Lưu, đồng thời đầy tôi rơi vào “bóng cớm” đó. Bế tắc tiếp. Đến nước này, “Bế tắc đúng là do Lưu, chỗ ông Lưu, thủ phạm là Uông Chu Lưu”. Tôi nghĩ, nếu mạnh mẽ, quyết liệt, công bằng đúng như Đàng kêu gọi, thì giá mà cấu thành tội phạm, phạm nhân sẽ là Ông Uông Chu Lưu, chẳng hằn là thủ phạm thì đồng mưu, đồng phạm, đồng lõa, đồng đảng cũng che dấu tội phạm”.
Do tôi đã từng gửi đơn thư đi nhiều nơi, cho nhiều người, trong một thời gian dài hàng chục năm, lại quả đất tròn, Hà Nội hẹp như lòng bàn tay, nên quá nhiều người, nhất là nội trong giới quan chức “nhẵn mặt nhau”, đều biết đích danh ông Lưu có liên can cá nhân, trực tiếp đến vụ này. Theo đạo Phật nhiều năm, tôi tự hỏi “kiếp trước tôi nợ gì ông Lưu mà kiếp này kẻ Hà Nội, người Hà Tĩnh, mà sao “ám” nhau ác thế! Phần tôi, lúc nào cũng bị ông Uông ám ảnh, xua như xua tà mà không được. Có kẻ cười, đùa thật hồn nhiên rằng “Xua làm sao được, “chu lưu” nghĩa là chạy vòng quanh - kiểu gì nó cũng quành trở lại”.
Xin quý vị trong Đoàn ĐBQHTP Hà Nội xem tập thư ngỏ gửi ông Uông Chu Lưu từ 2006 đến 2016, cùng các nội dung nhắn tin, điện thoại tới bà phó Chủ nhiệm UBTP13 Lê Thị Nga (hình như đồng hương Hà Tĩnh của ông Lưu), ông Chủ nhiệm UBTP QH.K13 Nguyễn Văn Hiện và Ông Phạm Quý Tỵ - Phó chủ nhiệm Uỷ Ban Tư pháp K12, cùng với ngót ba trăm lượt CV Kiến nghị chuyển đơn từ các cơ quan NN, TCXH, cá nhân có chức năng GSPL, … để thấy sự cố gắng, nhẫn nhịn, đứng đắn, nghiêm túc, đúng mức của tôi. Tất cả đều bị làm ngơ, rơi vào im lặng (không giải quyết, trả lời), nếu có chăng (cực kỳ hiếm hoi) thì né tránh, chiếu lệ, cố tình không đúng nội dung vấn đề. Sự “làm ngơ” ấy lại được “làm ngơ” nốt … mất điện, tắt, tắc.
Bởi vậy, đến lúc này, ở độ tuổi 70 rồi,  khọm già tôi cầu, kêu, van … xin tất cả 29 vị ĐBQH TP HN, độc lập từng vị một, bới chút thời gian “của dân”, mà “vì dân” trước hết là đọc hết đơn thư này, tìm hiểu “tâm tự, nguyện vọng” của dân (là tôi) rồi bằng quyền lực “do dân” của mình hãy làm đúng chức trách của mình, thực sự GSPL, thoát ra khỏi mọi “bóng cớm”, làm đúng như lời hứa tranh cử ĐBQH, rằng “Sẽ làm tất cả mọi việc, đem lại những điều tốt nhất cho dân cho nước”.
Tôi đặt hết hy vọng cuối cùng vào quí vị. Bởi vì, trong 29 ĐBQH HN có tới 2 Uỷ Viên  Bộ Chính trị là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và Bí Thư HN Hoàng Trung Hải (giữ chức Trưởng Đoàn ĐBQH), các vị còn lại là Phó Trưởng Đoàn chuyên trách, Chủ tịch HĐNDTP Hà Nội, Viện trưởng các Viện Phật giáo, Quốc phòng, Y học, Hiệu trưởng Đại Học, Tướng, tá quân đội (Tư Lệnh Quân khu), đứng đầu các ngành Tòa án, Công an, Luật sư Tp Hà Nội, Liên đoàn Luật sư VN, v.v…Địa vị, chức vụ, sắc, hàm như thế, lại được dân sáng suốt bầu chọn nữa, thử hỏi còn ai rành rõ luật pháp hơn và được quyền nói hơn quý vị? Quý vị mà “vô cảm” làm ngơ hoặc lại “ác cảm” với dân cứng đầu kiện lắm, kiện dai … thì thân lươn, phận kiến tôi đành “chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!”.
Nói riêng, với ông Nguyễn Phú Trọng, tôi đã gửi ông nhiều đơn thư đến Quí Ông với chức danh UVBCT, Bí thư Hà Nội (trước đây) và cả Tổng Bí thư Đảng CSVN mấy năm gần đây mà chưa hề được hồi âm. Với các chức danh đó, tôi chỉ xin và không có quyền đòi hồi âm. Nay tôi gửi thư này gửi ông với tư cách ĐBQH. Mong ông làm gương cho các ĐBQH khác, đặc biệt đối với ĐBQH là Đảng viên. Tôi gửi đến ông Hoàng Trung Hải những lời tương tự. Với tinh thần … quyết liệt chống “tự chuyển biến, tự chuyển hóa”, chống lợi ích nhóm, chống tiêu cực … của Đảng, mong 2 Đ/C mạnh mẽ, quyết liệt.    
Cầu Trời Phật rủ lòng thương. Tôi vẫn tin, vẫn hy vọng rằng sẽ có được tiếng nói “nghiêm túc” đồng loạt của 29 Quý vị ĐBQH Hà Nội, ông Uông Chu Lưu và bà Chủ nhiệm UBTP Lê Thị Nga sẽ phải trả lời đúng theo chức trách theo quy định. Như thế, thì các Vị Chánh Án TATC, Viện trưởng VKSTC, Tổng cục trưởng cục THADS, Bộ trưởng Bộ Tư Pháp, Bộ TNMT, Bộ Xây Dựng, các Cơ quan ngang Bộ hữu quan, UBNDTP Hà Nội, Cẩm phả - UBND Tỉnh Quảng Ninh … mới làm đúng chức trách của mình như luật quy định …! Có thế, mới giải quyết dứt điểm vụ án dân sự thứ 5 này cho gia đình tôi.
Tóm lại, hành pháp trơ lỳ, chây bửa “không hành” đã rõ. Mà “giám pháp” lại “chẳng dám” nói, “không dám” phán, “không dám” phê, … thì “hành pháp” cứ “không hành” việc “phải hành”, cứ trơ ỳ! Cứ kiện, cứ khiếu, cứ tố … “kiện của khoai” … Tôi xin được đệ trình đầy đủ các đơn cũ của tôi chưa được giải quyết hoặc giải quyết, trả lời không đúng luật pháp, không đúng nội dung để quý vị xem xét.
Rốt cuộc, bế tắc từ trước đến nay do chính là do khâu GSPL của Quốc hội chưa mạnh mẽ, quyết liệt. Đoàn và cá nhân ĐBQH Hà Nội không ngoại lệ, thậm chí rất điển hình. Cách tháo gỡ duy nhất và chắc chắn có hiệu quả là ĐBQH K.14 (cá nhân ĐB và tập thể đoàn ĐBQH HN) phải xác định THẨM QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CAN THIỆP BUỘC HÀNH PHÁP, TƯ PHÁP PHẢI THỰC HIỆN ĐÚNG, NGHIÊM TÚC PHÁP LUẬT, TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN. DÂN CHỦ. Cái khó của việc “giám pháp” trong vụ này chính là đụng đúng ông “giám trùm” Uông Chu Lưu. Dân mong quí vị nhận thức được ĐBQH là “của dân”, Quốc hội chỉ tổ chức, chỗ đứng đơn thuần, và phải giám sát cả hoạt động của các ban bệ của chính Quốc hội. Nghĩa là, xin quý vị có quyền giám sát cả ông Lưu, bà Hà và cả ô. Súy. Họ phải báo cáo công tác, phải chịu sự giám sát của Quí vị. Bởi vì, như trình bày trên, cái nút phải tháo gỡ cho vụ này chính là cây “bóng cớm” của Ông Uông Chu Lưu. Đảng, Nhà nước thừa nhận đã có “nhóm lợi ích” hại dân hại nước – phải đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ. Hại chính tôi, riêng tôi là “nhóm quyền lực” mà trùm “bóng cớm” là ông Uông Chu Lưu. Từ đó đã sinh sôi ra 2 cây “cớm” nữa là bà Hà, ông Súy. “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”. Thân giun phận kiến như tôi đối làm sao lại.
Xin quí vị xem qua các đơn thư, văn bản tôi gửi kẻm theo để thấy tôi không “qui kết” vô căn cứ, vu khống, vu cáo. Đó là sự thật. Sự thật đó là: Các cơ quan, cá nhân liên quan từ TW đến địa phương đều phụ thuộc vào chỉ đạo và ảnh hưởng của phó CTQH Uông Chu Lưu! Nếu ông Lưu kiện lại tôi về điều này, tôi sẵn sàng hầu tòa công khai, bình đẳng! Nếu ông Lưu (và cả bà Hà, ông Súy nữa) thực sự trong sáng, xin ông-bà tự giải oan. Tôi thành thực xin lỗi và cám ơn ông muôn đòi, muôn kiếp.
Lần này, có bị tù cũng không oan bằng các lần trước.

Về Ông Uông Chu Lưu
- Ông Uông Chu Lưu “ám” tôi từ 2016, khi đang là Bộ Trưởng Tư Pháp, bắt đầu bằng việc không giao việc giải quyết đơn tôi KNTC về công chứng cho Vụ Bổ trợ Tư pháp là vụ có chức năng quản lý công chứng mà giao “trái khoáy” sang Thanh Tra, trực tiếp là cánh hẩu Chánh thanh tra Bộ Hà Kế Vinh. Thử hỏi, là Bộ trưởng mà không biết rõ chức năng của từ Vụ, Phòng, Ban trong bộ mình, lại là Bộ trưởng Tư pháp mà mù khái niệm “chức năng”, “thẩm quyền”, “quyền hạn” và không biết việc làm đó trái Nghị Định 62/NĐ-CP quy định QL Công chứng thuộc Vụ Bổ trợ Tư Pháp. BTP đã cho người “đón lõng”, cầm lấy đơn của tôi, không đọc, vờ liếc mắt qua và ghi luôn “Đơn tố cáo nảy thuộc thẩm quyền Thanh tra Bộ giải quyết”. Sau này, nghĩ lại mới thấy, cung cách ấy chứng tỏ do đã biết trước tôi sẽ đến nộp đơn và đó là cách ứng phó đã sắp đặt sẵn, Quả là “cậy quyền”, “cửa quyền” thô thiển đến thô bạo, thô bỉ, lừa trên, bịp dân, phi văn hóa, vô đạo đức. Tôi kiện Bộ trưởng Hà Hùng Cường ở khắp nơi. Rát mặt quá và cứng họng, ô. Hà Kế Vinh đành phải công khai thừa nhận tại TB sô 379/TB – BTP- 27/3/2010 chính ông Uông Chu Lưu giao nhiệm vụ này cho Thanh tra Bộ. 
- Phần ô. Hà Kế Vinh, được bề trên che, và tin cậy giao phó, Ông đã tìm cạ ngay trong BTP, chọn lọc Vụ Hành chính TP, Tổng cục THADS. Đặc biệt đáng lưu ý là không có Vụ Bổ trợ Tư pháp (là vụ liên quan nhất, đáng lẽ phải được giao nhiệm vụ) và người của Tổ Thư ký Bộ-Thứ trưởng, nhưng lại lôi kéo được cá nhân Thanh tra bề trên là ông Bùi Nguyên Súy (Cục trưởng Cục I, TTCP, chuyên giải quyết KNTC). Họ đã “liên thủ” ra “Kết luận Thanh tra” số 18/KLTTr (10/11/2010). Tôi đã kịp KNTC, vạch trần, và bị dư luận can thiệp, Bộ trưởng BTP Hà Hùng Cường (kế nhiệm ô. Lưu) đã không dám ký “phê duyệt” thông qua kết luận thanh tra đó. Nghĩa là kết luận sô 18/KL- TTr coi như vứt sọt rác!
 Nhưng, Bộ Tư Pháp vẫn trơ lỳ không đếm xỉa đến CV số 595/TTCP-VP-25/03/2009 nói trên của Tổng Thanh tra Chính phủ.
- Về phần ông Lưu, không giao đúng người, đúng việc (việc về công chứng phải của Vụ Bỏ trợ TP) là xảo quyệt, thâm hiểm, là cố tình, cố ý … Không phải vô tình, không đơn giản là sơ sót. Bởi vì, xét từ cấp hàm, chức vụ, trách nhiệm, chuyên ngành, chuyên môn, … cỡ “bự” như Ông đâu có thể “ngu” đến độ có thể sơ suất như vậy. Đó là chưa kể, về sau và đến nay, đã biết sai và bề dưới “trơ lỳ”, “chây bửa”, “sai lè”, “sai lòi” và “khiếu kiện kéo dài” … Ông vẫn giả mù, giả điếc, giả câm, lạnh lùng đóng vai “trùm” cho bề dưới tự tung, tự tác, vẫn lặng lẽ phủ “bóng cớm” làm dân chết mòn. Tất cả chỉ vì quyết chống lại, không thực hiện VB số 595/TTCP-VP(25/03/2009) của Tồng TTCP. Bởi vì, nếu giao cho Bổ trợ TP (BTTP) thì chỉ có thể là “cứ thế mà thực hiện”. Bổ trợ TP làm gì có quyền “xem xét đề xuất” xét lại VB của TTCP. Giao cho Thanh tra Bộ chí ít là “giết thời gian”, “hoãn binh” được, vì khi đó phải đợi Thanh tra, thâm hiểm, tinh quái hơn là sau đó, thanh tra rồi thì vẫn chỉ là “kiến nghị” thanh tra. Lại chờ đơn vị “chức năng” chấp nhận kiến nghị TT đó, mới thực hiện. Đưa được vấn đề trở lại hệ Thanh tra là nghiễm nhiên được thanh tra “xem xét lại” mà lại tự xem xét lấy, không cần có văn bản kiến nghị. Ngoài “lưu manh” không thể dung từ gì khác được - đánh lận con đen. Nếu trót lọt thì Thanh tra trên – Thanh tra dưới, cùng ngành dễ thông cảm, “thông đồng”, “thông gian” hơn, dễ êm xuôi, trót lọt hơn. Việc để cho ô. Vinh lập Đoàn Thanh tạp nham, “nửa dơi - nửa chuột” là “đánh bùn sang ao”, “ném đá ao bèo” … bẩn thỉu, là trò kéo bè, kéo cánh “tiêu cực” để đỡ đòn cho nhau, móc ngoặc, có đi sẽ có lại. Xin hỏi: Vụ việc rõ ràng như thế, việc gì phải thành lập đoàn?, để dân thưởng như tôi khinh bỉ vể kiến thức, phỉ nhổ phẩm chất. Các câu hỏi trên đặc biệt giành cho ô Bùi Nguyên Súy. Câu trả lời đã có ngay ở việc Bộ trưởng Hà Hung Cường không phê duyệt, thông qua kết luận số 18/KL- TTr – 10/11/2010
- Thua keo này bày keo khác, Hà Kế Vinh cố trơ mặt ra văn bản nội bộ số 372/BTP-TTr (ngày?) ép TCTHADS, để rồi Tổng cục lại đẩy xuống, ép cục THA Hà Nội cứ phải thi hành bản án trái pháp luật, án bỏ tủ trước một tháng, ghi ngày 8/12/2009  đã bị khiếu nại tố cáo từ ngay sau khi tuyên (07/01/2010) bất chấp Văn bản 595/TTCP-VP-25/03/2009 của Tồng TTCP (Tòa tối cao đã nhận qua bưu điện ký chiều 8/4/2009) nói trên là VB chưa hề bị hủy bỏ, vô hiệu. Đó là việc làm vi phạm pháp luật của Hà Kế Vinh. Tôi nghĩ, có thể qui tội danh, đại thể “lợi dụng chức vụ làm sai lệch hồ sơ và cố tình làm sai gây hậu quả nghiêm trọng”. Hậu quả ở đây là tổn hại đến uy tín cùa Đảng – Nha nước, lợi ích nhân dân là tôi.
Ngài Nguyên Soái lộ diện tư lệnh cuộc chiến bằng việc ra CV sô 257/CI-P2 (03/04/2010) cho Hà Kế Vinh sau này bài binh bố trận, tổ chức cuộc họp gồm tất cả các “bị đơn”, là các Cơ Quan bị khiếu kiện từ Quận trở lên Thành phố, đa số là cấp TW, tối cao từ VKSNDTC, TANDTC, đến cấp Bộ là Bộ Tư Pháp thống nhất ký quyết nghị chung “KHÔNG CƠ QUAN NÀO GIẢI QUYẾT VIỆC CỦA BÀ P.T. QUÝ NỮA! CỨ GIỮ NGUYÊN ĐỊA CHỈ “ MA”! KHÔNG THAY ĐỔI. Thật gian tà, ma quỷ. Gian tà đến hạ lưu, mất hết tính người, chẳng còn thể diện, ma quỷ đến ma thiêng, quỷ ác vì đểu là thượng đẳng. Bởi vì cái “ĐỊA CHỈ” mà họ “LIỀU CHẾT”, “KẾT BÈ” quyết giữ ấy là “sai” và địa chỉ “sai” vì giấy tờ lập “gian”. Mà như thế có nghĩa là thực sự hủy bỏ VB 595/TTCP-VP-25/03/2009 của Thanh tra CP là chính cơ quan, cấp trên của ông Súy ban hành, người tiền nhiệm là sếp của ông ký. Nếu Văn bản này sai, ông Súy cứ đường đường chính chinh, cứ việc hủy nó theo đúng trình tự, thủ tục pháp lý. Rõ ràng là có uẩn khúc, ma mọi. Nam nhi quân tử sao ông xử một nữ nhi hèm mọn như tôi kiểu ấy?
Đường đường một đấng anh hào
Sao ông xử sự khác nào ma cô?        
          Ông không thấy cái quyết nghị đó là bẩn thỉu đến lũ ăn xác thối kền kền, linh cẩu cũng lộn mửa hay sao? Đó là sụ khinh dân lộ liễu, thô bỉ, thô bạo là đến mức chỉ cần không tâm thần, mất trí là thấy rõ mồn một; đặc biệt là không nể, dám tin là có thể qua mặt được lực lượng giám sát pháp luật hùng hậu, có tổ chức rộng lớn, cơ cấu chặt chẽ, nhân sự cao siêu về nhận thức chính trị, giác ngộ “dân chủ”, nhất là đội ngũ tinh hoa được dân bầu chọn là ĐBQH. Vì sao ô. Súy và cả quân tướng dưới trướng dám làm thế. Thiển cận như tôi, cứ nghĩ đi, ngẫm lại, … chung quy lại thấy vì họ chỉ còn sợ “giám sát pháp luật” là ĐBQH mà về mặt GSPL thì ông Lưu là “trùm ông”, lại thêm bà Hà là “trùm bà” rồi. Việc ô Súy từ TTCP được “đặc cách” đưa về làm Phó Vụ Dân Nguyện QH làm người ta nghĩ về quan hệ của ô. Súy với ô. Lưu. Ông Súy là nguyên soái, ông Lưu mới là “chúa thượng”. Gần như ý vua là ý trời và “Quân bảo thần tử, thần bất tử - bất trung”. Ở đây, ô Súy lại ký CV 162/BDN (30/05/2010 lùi một năm). Dấu phát của Bưu điện là 31/05/2011, lùi 1 năm so với ngày ký CV (30/05/2010). Cố tình đề để công khai bảo TANDTC không giải quyết gì hết
Vì bà Quý đến tận nhà riêng nhiều lượt ép ông Lưu làm đúng luật, lại đúng thời gian nhạy cảm nên ông Lưu đành phải hưa có công văn đôn đốc bộ Tư pháp – TANDTC. Thực tâm ông không muốn nên ủ mưu cho ông Súy thảo công văn 162/ ban Dân Nguyện…lừa dân – một cứ lừa “ngoại mục”. Ông Lưu có chỉ đạo mà cũng như không chỉ đạo – công và tội khác gì nhau!
           Thưa 29 Quý vị ĐBQH TP Hà Nội !
Sự nín nhịn suốt 13 năm trời phải theo vụ dân sự thứ 5 và 31 năm phải theo 5 vụ hình sự công 4 vụ dân sự còn lại làm tôi không tiếc thời gian công sức hàng tháng trời nay để viết là thư này – Đương nhiên không thể kể hết đươc nỗi thống khổ của gia đình mình đã phải chịu đựng suốt 31 năm  trong một lá thư! Cho nên, tôi viết thêm dơn 15/7/2017 và đơn tách riêng phần vi phạm pháp luật về mảng hình sự riêng ra để trình bày  mong quý vi dễ nắm bắt đại lược về nhân tình thế thái… bằng những đêm dài không ngủ, những bữa quên ăn – bằng máu, nước mắt, sức lực tinh thần…ghi chép lại tội ác ngấm ngầm công, khai phá hoại nền tư pháp – hành pháp của những người trong hệ thống lập pháp, họ đã đặt lợi ích nhóm lên trên nghĩa vụ trách nhiệm, lương tâm con người… để đệ trình Quý vị - những đại biểu Quốc hội khóa 14 thực thi trọng trách của mình qua việc thực, người thực của bản thân, gia đình tôi – ngõ hầu đem lại điều gì đó lớn lao hơn cho đất nước Việt Nam - cho những người dân hiền lành lương thiện, bị hại chúng tôi được hưởng tinh thần tôn trọng, tôn vinh sự công bằng – bình đẳng trước pháp luật.
          Qua đó, trả lại cho chúng tôi vị trí – danh dự - quyền lợi của một công dân không phải mang tội “cái tội chính trị - chống đối chính quyền”– bị tước đoạt quyền sống hết đời này sang đời khác! Với gia đình tôi là 3 đời: Mẹ tôi – chúng tôi – Các con tôi!
           Nếu cần tôi sẵn sàng cung cấp tài liệu bổ sung theo yêu cầu của quý vị. Và xin chịu trách nhiệm trước pháp luật với việc tố cáo này!
Tôi xin trân trọng cảm ơn công đức Giám sát pháp luật của toàn thể Quý vị Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội!

Kính thư




Công dân – Cử tri
Phạm Thị Quý