Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

'Nhu cầu lập hội là một thực tế ở VN'

Ảnh bên:Chính quyền Việt Nam hiện nay vẫn chưa có luật về lập hội hoặc luật biểu tình.
Nhu cầu thành lập các hội, đoàn là một thực tế ở Việt Nam mà chính quyền cần có sự đổi mới về nhận thức để đi tới đáp ứng, hướng dẫn người dân thực hiện quyền của họ, theo cựu Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết.


Trao đổi với BBC hôm 16/3/2014, Giáo sư Thuyết cho rằng nhu cầu lập hội đoàn là một nhu cầu chính đáng đã được Hiến pháp Việt Nam thừa nhận, do đó mặc dù Việt Nam chưa có luật được ban hành về lập hội, các cơ quan hành pháp, trong lúc đợi luật được xây dựng, công bố, vẫn có thể căn cứ vào những văn bản pháp quy đã có để hướng dẫn người dân thực hiện quyền của họ.

Cựu đại biểu cho hay hiện vẫn chưa biết khi nào một đạo luật về quyền lập hội sẽ được trình lên Quốc hội Việt Nam, tuy theo kế hoạch được dự kiến mà ông biết, tới năm 2015-2016, Việt Nam có thể sẽ có luật biểu tình được trình ra Quốc hội.

Giáo sư Thuyết nói với BBC:

"Dù là chưa có luật, nhưng cũng đã có nghị định của Chính phủ về tổ chức hội rồi, và chính phủ cũng đã giao cho những cơ quan cụ thể phụ trách về vấn đề này.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

"Theo tôi, trong trường hợp này, các cơ quan phụ trách cần phải căn cứ vào nghị định của Chính phủ và có hướng dẫn đối với ý kiến đề xuất thành lập hội của người dân.

"Để làm sao mình vừa bảo đảm được việc thực thi pháp luật, nhưng cũng vừa đảm bảo được nguyện vọng của người dân."

Theo Giáo sư Thuyết, với hội nào mà chính quyền cảm thấy chưa thích hợp lắm, chính quyền cũng có thể trao đổi với người dân để người dân nghiên cứu có 'tôn chỉ, mục đích' thích hợp hơn.

'Không thể máy móc' 
Gs Nguyễn Minh Thuyết
Giáo sư Thuyết cho rằng nhà nước phải có sự thay đổi trong cách nhìn về xã hội dân sự và ứng xử với nhu cầu hội đoàn của người dân.

Ông nói:

"Tôi nghĩ rằng việc này là một việc phải giải quyết ở trong một xã hội thực sự dân chủ, mình không thể quan niệm một cách rất là máy móc như trước đây được nữa.

"Mình phải nhìn nhận đây là một thực tế, và có một sự hướng dẫn cho người dân.  Để làm sao người dân thực hiện được quyền của người ta về việc thành lập hội đoàn theo quy định của Hiến pháp, phù hợp với pháp luật của Việt Nam."
Giáo sư Thuyết cho rằng trong việc soạn thảo luật liên quan tới lập hội, nhà nước cần phải có bước đi cải cách.

Ông nói:

"Tôi nghĩ phải có một tư tưởng cải cách thật là mạnh, ví dụ, đã gọi là các hội đoàn, đã gọi là các tổ chức xã hội dân sự thì phải do người dân tự nguyện lập nên và kinh phí ấy là kinh phí đóng góp của các thành viên,
"Chứ không thể nào mà mình sử dụng kinh phí nhà nước để làm những việc như vậy, bởi vì nếu thế thì bộ máy hành chính quá cồng kềnh, không có một ngân sách nào chịu nổi cả."

Đến nay nhiều hội, đoàn của Việt Nam, trong đó các tổ chức như Liên hiệp các Hội khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (Vusta), Hội Liên hiệp Văn học & Nghệ thuật, Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, cho tới một số thiết chế khác như Tổng Liên đoàn Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng nhiều Đoàn, Đội, hội khác đều ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhận kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước để hoạt động và nhân sự do chính quyền xét duyệt, cơ cấu, bổ nhiệm hoặc thông qua v.v...

'Phải có luật sớm' 
Bà Phạm Chi Lan
 Cũng liên quan tới quyền thành lập hội của người dân và việc xã hội dân sự cần được chính quyền nhìn nhận ra sao, hôm thứ Sáu, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng chính phủ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, nêu quan điểm:

"Nguyện vọng của người dân muốn thành lập các hội của họ cũng là một nguyện vọng chính đáng. Vấn đề chính là nhà nước phải đưa ra những cơ chế để hình thành được, nhất là điều này đã được đưa vào Hiến pháp rồi.

"Về quyền lập hội của người dân, cần sớm có những quy định bằng luật để cho có thể thực hiện được điều đó."

Gần đây, một loạt các tổ chức trong xã hội dân sự Việt Nam đã được người dân 'tự phát' thành lập.

Trong lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp, mới nhất là đầu tháng Ba này, đã xuất hiện một tuyên bố vận động một tổ chức được gọi là "Văn đoàn Việt Nam Độc lập" do một nhóm các văn nghệ sỹ và các nhà chuyên môn trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật v.v... đứng ra đồng chủ xướng vận động.

Một trong những thành viên của nhóm vận động hội đoàn này, ông Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Thành phố Hà Nội, giải thích với BBC, tổ chức này không hề có ý định đối lập với Hội nhà văn Việt Nam được chính quyền thừa nhận và cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên có thể sẽ có một cấp độ mà ông gọi là 'cạnh tranh chuyên môn' với Hội nhà văn hiện hữu, như ông Nguyên nói với BBC hôm 03/3/2014:

"Sự cạnh tranh đó sẽ trên hoạt động, rồi thì sẽ thấy cái chuyện cạnh tranh hay không.

"Chứ không phải mục đích là lập ra hội này để đối lập với hội kia, để cạnh tranh, thì điều đó, bản thân sự thành lập cũng đã có cái khác rồi.

Trước đó, trong một số lĩnh vực chính trị, xã hội và cộng đồng, một số hội dân sự đã ra đời, trong đó có các nhóm mang tên gọi như Diễn đàn Xã hội Dân sự, Mạng lưới Blogger Việt Nam, Tổ chức Cựu tù nhân Lương tâm, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Hội Dân oan Việt Nam v.v...

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

ĐƠN TỐ CÁO ĐỐI VỚI BIÊN BẢN SỐ 26/BB- UBND- TTCP ĐỀ NGÀY 10 - 01-2013 CỦA THANH TRA CHÍNH PHỦ và UBND TPHCM



                                   CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                               TP.Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 03  năm 2014

 ĐƠN TỐ CÁO

  (Đ/v Hành vi lén lút, vụng trộm của ông Lê Minh Trí - phó CTUBND TPHCM. Hiện nay là phó Ban Nội chính TW cấu kết với  phó Tổng Thanh tra Chính  Phủ; Ra văn bản bịa đặt, vu khống nhằm lấp liếm, bao che cho hành vi phá nhà, cướp tài sản, chiếm đất của tôi. Để báo cáo gian dối lên Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. )

Kính gửi                          ÔNG  NGUYỄN BÁ THANH
                         TRƯỞNG BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Đồng K/gửi :         CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN , BÁO GIỚI

 Người tố cáo  :    Nguyễn Xuân Ngữ, sinh năm: 1943, CCB, CBHT, con LS.
Chủ quyền hợp pháp nhà, đất số 166/6 KP Mỹ Thành, P. Long Thạnh Mỹ,  Q9
CMND số      :     023030668, cấp ngày 13/9/2004, tại TPHCM
Hiện bị chính quyền quận 9 ( gồm quận ủy và UBND quận – viết gọn là CQQ9 ) đuổi ra khỏi nơi ở hợp pháp dồn vào khu tập trung ( như mô hình khu trù mật, khu dồn dân để chiếm đất của thời Ngô Đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu )  .
Địa chỉ liên lạc hiện nay: P.C9, khu nhà trọ số 41, đường Tăng Nhơn Phú, Khu Phố 2, Phước Long B, Quận 9, TPHCM
  
Người bị tố cáo :     - Ông Lê Minh Trí nguyên phó CTUBNDTpHCM
                                     Hiện đang là Phó Ban Nội chính Trung ương.
                                 -  Bà Lê Thị Thủy – Phó Tổng Thanh  tra Chính phủ ,
  Nước Cộng hòa xã Hội chủ nghĩa Việt Nam
          -  Ông Vũ Huy Tác – Phó Cục trưởng Cục III
   Thanh tra Chính phủ, tổ trưởng tổ công tác
Cơ sớ pháp ý để tố cáo ;
Căn cứ Điều 19 Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011 .
      Căn cứ khoản 2 Điều I, quy định số 94/QĐ-TW ngày 15 / 10 / 2007 ; Phạm vi đối tượng xử lý kỷ luật của Ban Bí thư Trung Ương Đảng .
                                         Nội dung tố cáo :

          I . Hành vi ban hành biên bản gian dối, xảo trá của Thanh tra Chính phủ
và ông Lê Minh Trí  phó CTUBTPHCM, hiện là phó Ban nội chính TW

Ngày 22/01/2014 ( Ngày 22 sắp Tết Giáp Ngọ ) tôi đến Trụ sở tiếp công dân của TW Đảng và Nhà nước tại Hà nội. Tôi nhận được tờ “BIÊN BẢN THỐNG NHẤT GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC số 26/BB- UBND- TTCP đề ngày 10 - 01-2013 ( BB26BB) vụ việc ông Nguyễn Xuân Ngữ tố cáo lãnh đạo UBNDQ9 vi phạm pháp luật trong dự án Khu Công nghệ cao quận 9 TPHCM ” do ông Lê Minh Trí, lúc đó là Phó chủ tịch UBND TPHCM , nay là phó Ban Nội chính TW và bà Lê Thị Thủy phó Tổng thanh tra Chính phủ nước CHXHCNVN ký .
Khi nhận  tờ biên bản này, tôi thật sự bất ngờ. Bất ngờ vì :
Với cương vị như bà phó Tổng thanh tra Chính phủ Lê Thị Thủy, ông phó Ban nội chính Trung ương Lê Minh Trí, và ông Cục phó Cục III Thanh tra Chính phủ Vũ Huy Tác. Tôi nghĩ, lẽ ra các cán bộ cấp Trung ương này không những phải nghiêm chỉnh chấp hành  mà còn phải gương mẫu thực thi Hiến pháp và pháp luật .
Nhất là trong năm qua cán bộ, đảng viên đều được học tập Nghị quyết TW4, và cuộc vận động học tập, làm việc theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, nên ít nhiều cũng có tác động  trong suy nghĩ về lời dạy của Bác Hồ.
                        “ Thanh tra là tai mắt của trên , là người bạn của dưới ” 
   Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều làm đầy tớ của nhân dân – Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi và nước mắt của nhân dân mà ra – Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân…”
Bác quan tâm đối với việc khiếu nại, tố cáo của người dân, đã căn dặn nhắc nhở cơ quan hữu trách, và cán bộ viên chức làm công tác này.
             “ Đồng bào có oan ức mới khiếu nại,…. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó ”
            “ Quan điểm của chúng ta đối với những điều nhân dân kêu với chúng ta
Một là, người ta kêu về những cái bản thân người ta bị thiệt thòi; Hai là người ta kêu về những cái người ta thấy không đúng trong công việc của chúng ta, trong đội ngũ các bộ của chúng ta, người ta tố cáo những cái không đúng đó, trách nhiệm của những người ở cơ quan Nhà nước đồng thời cũng là những người ở cương vị lãnh đạo của Đảng …trách nhiệm tối thiểu của chúng ta là phải giải quyết những điều người ta kêu với chúng ta. Những người đó là Nhân dân, các tầng lớp nhân dân, những người bị thiệt, những người có điều uất ức trong lòng ”.
Vậy mà ông phó Ban Nội chính Trung ương lại cùng với một số cán bộ lãnh đạo của Tổng Thanh tra Chính phủ; Cơ quan thường trực phòng chống tham nhũng chụm nhau lại lén lút, viết ra một văn bản là “Biên bản thống nhất giải quyết vụ việc số 26/BB- UBND- TTCP đề ngày 10 - 01-2013 ( BB26 ) vụ việc ông Nguyễn Xuân Ngữ tố cáo lãnh đạo UBNDQ9  với lời lẽ hoàn toàn bịa đặt, vu khống để báo cáo lừa dối Thủ tướng Chính phủ, lừa dối Quốc Hội, đúng là dối Đảng, hại dân, đây có lẽ là bản chất của ông Lê Minh Trí như Báo Người cao tuổi đã viết bài “ Những tiếng chuông cảnh báo ” đăng 07/8/2009 khi ông Trí còn làm CTUBND quận 1 TPHCM ( xem ở phần cuối đơn .)
Bản này không phải là quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo, không phải là quyết định đình chỉ KN,TC. Biên bản này mang tính báo cáo Thủ tướng để lấy thành tích, lợi dụng lòng tin của Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền cấp trên và lừa dối công luận, càng gieo vào người dân thêm bức xúc vì oan ức!

Bằng chứng :
           Tài sản hợp pháp của tôi :
- Nhà và đất của tôi có giấy chứng nhận QSDĐ ( có sổ đỏ ). Là một trang trại được xây dựng công phu, có địa thế ven bờ sông, môi trường tốt.
- Với mô hình V.A.C có thể thu nhập lâu dài hàng tỷ đồng mỗi năm, từ các nguồn:
- Hoa quả Sa kê, nhãn, xoài xanh, mít, chôm chôm Thái lan.
- Dược liệu : Lá Sa kê, Đinh lăng, Diệp Hạ châu, Trinh nữ Hòang cung …
- Gia cầm Gà Tây, ngỗng, vịt xiêm, gà ác, gà sao, các loại động vật quý hiếm Tắc kè, Nhím, Trăn, Gấu ngựa…(  nuôi hợp pháp )
- Thủy sản : Cá chình, cá bống mú, hàng tấn Ba Ba, Rùa.
- Ngoài ra còn thu từ dịch vụ  :  câu cá , cầu lông …

http://www.youtube.com/watch?v=4kupqUyv3Jc

Địa thế nhà, đất, trang trại của tôi nằm bên bờ của nhánh sông Đồng nai, môi trường trong sạch, mát mẻ, thuận tiện giao thông thủy bộ và du lịch sông nước .
Với một trang trại bề thế, nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế gia đình. Trước khi xây dựng trang trại này tôi đã tìm hiểu và được biết sau này là khu dân cư nhà vườn cây xanh…Mặc dù nhà, đất của tôi cách xa tường xây bao phân cách khu công nghệ cao với bên ngoài khoảng 2 đến 3km, nhưng chính quyền quận 9 ( viết gộp cả quận ủy và ủy ban quận 9 – CQQ9 ) lợi dụng việc lấy đất cho dự án công nghệ cao ( CNC ), để manh tâm chiếm đoạt . Cụ thể là :
- Ngày 05 / 5 / 2003 CQQ9. Dùng quyết định thu hồi đất của phường Long Bình ( P.khác ) để kiểm kê lấy đất của tôi.( Tôi không dùng cụm từ thu hồi đất, vì toàn bộ việc lấy đất của 3099 hộ dân không có quyết định thu hồi đất. Không tống đạt QĐ thu hồi đất đến cho từng hộ gia đình theo quy định của pháp luật : LĐĐ 2003 – kể cả LĐĐ1993, sđbs 1998,2001) .
Nội dung sự việc như trong Báo Phụ nữ ngày 04 -9-2008 có bài viết :
  MẬP MỜ ĐỀN BÙ GIẢI TOẢ ”
- CQQ9 nói “ thu hồi ” đất của tôi cho dự án CNC; nhưng lại đề nghị tôi nhận cho một gia đình ( 2 vợ chồng + 1 đứa con ) người thân của ông Nguyễn Văn Út trưởng ban bồi thường (BBT ) vào ở lâu dài ? Tôi không chấp nhận, nên nảy sinh mâu thuẫn…( Nay ông Út lên làm Chánh Văn phòng UBNDQ9 ).
- Đầu năm 2004 CQQ9 nói tôi nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( sổ đỏ ) để kiểm tra tính pháp ý ( Thật – giả ) cho việc tính giá trị bồi thường. Thậm chí, tạo cớ làm tin, CQQ9 nói tôi làm đơn đề nghị để tín chấp cho tôi 700, triệu đồng. Nhưng giữ luôn giấy CNQSDĐ không trả tôi. Đồng thời đẩy nhà đất của tôi vào cảnh quy hoạch treo .
- Ngày 13/ 11/ 2004 tôi đã gửi đơn đến CQQ9 cho biết đất, nhà của tôi có nằm trong quy hoạch không ? Nếu không nằm vào quy hoạch,  tôi hoàn trả lại tiền và trả lại tôi sổ đỏ, CQQ9 im lặng không trả lời. Đây là hành vi lừa gạt để chiếm giấy tờ trước và chiếm đoạt tài sản sau.
- Ngày 21/12/2005 CQQ9 đơn phương ban hành quyết định tính giá trị bồi thường tài sản của gia đình tôi .(TGTBTTS) số 3144/QĐ-UBND-BBT, đề ngày 21/12/2005. Tính bồi thường, chỉ tính một phần tài sản nhà tôi không tính hết. Nghiêm trọng hơn là Nhà, đất, tài sản của tôi hoàn toàn chưa có một văn bản mang tính pháp lý nào để khẳng định là nằm vào dự án CNC phải bị thu hồi:
 - Không cung cấp thông tin : lý do, mục đích thu hồi đất.
 - Không thực hiện quy định tại Điều 32, LĐĐ 2003.
 - Không công bố bản đồ quy hoạch chi tiết 1/2000 khu CNC theo quy định của Pháp luật, thì cơ sở  nào để biết nhà và đất của tôi có nằm vào diện tích quy hoạch ? và DT thu hồi là bao nhiêu để tính bồi thường ? ( Điều 24 Nội dung quy hoạch chi tiết quản lý quy hoạch xây dựng. Điều 32 Công bố quy hoạch xây dựng. Điều 33 Cung cấp thông tin về quy hoạch xây dựng – Luật xây dựng )
 - Không có quyết định thu hồi đất và không tống đạt QĐ thu hồi đất đến gia đình tôi theo quy định của LĐĐ 2003.
           Khoản 3 Điều 53 NĐ 84/2007 . Quyết  định thu hồi đất phải  được gửi đến  người có đất bị thu hồi và …”
 - CQQ9 nêu căn cứ Luật đất đai đã được thông qua  tháng 11/ 2003 ( có Điều 145 ) nhưng không áp dụng một Điều, khoản nào của LĐĐ 2003 ; Mà CTQ9 tính giá bồi thường lại áp dụng LĐĐ1993, 1998, 2001 đã hết hiệu lực pháp luật từ 5 năm trước.
         Căn cứ Nghị định 22/CP…Căn cứ Quyết định số 121QĐ.” ( Hai văn bản này hướng dẫn thi hành LĐĐ 1993…2001)
- Đất, nhà của tôi tại Khu phố Mỹ Thành, P.Long Thạnh Mỹ. Ủy ban Q9 lại dùng QĐ 2193 của UBTP thu hồi đất của P.Tăng Nhơn Phú A và Tăng Nhơn Phú B làm căn cứ pháp lý để buộc nhà và đất của tôi vào “đối tượng” phải bị thu hồi !?
- CQQ9 còn dùng thủ đoạn : cho Ban bồi thường (BBT ) liên thông với TANDQ.9 và Phòng kế hoạch tài chính Q.9, cấu kết lập ra 2 tờ biên nhận giả (bút lục số 410 và BL số 409) nói có người đã góp tiền mua chung đất với tôi taị 166/6 này. Tiếp theo, Tòa án Q9, VKSNDQ9, Ban bồi thường Q9, chính quyền phường đến kiểm kê tính giá trị tài sản nhà và đất của tôi ( Bút lục từ số 347 đến BL số 351 ) để đòi chia tiền bồi thường. Tôi kiện việc này Tòa án Q.9. Vụ việc này kéo dài 6 Phiên Tòa (3 Sơ Thẩm + 3 Phúc Thẩm) mới được xử lý rõ thật giả, đúng sai.
Sau vụ lập chứng cứ giả vừa nêu trên CQQ9 thua kiện, Chủ tịch UBQ9 lại trắng trợn lập mưu kế lừa gạt :
Khi giao tiền bồi thường cho tôi, Ban bồi thường Q9 cấu kết với chủ tịch UBND p. Long Thạnh Mỹ ông Cao Văn Hoàng, in tờ cam kết để thực hiện hành vi lừa tôi ký bằng thủ đoạn xếp kẹp sẵn vào giữa 2 tờ : Tờ phiếu chi 100 triệu đồng và tờ biện bản bàn giao tiền bồi thường  :  “ TỜ CAM KẾT GIAO MẶT BẰNG” cho nhân viên làm ra vẻ phục vụ chu đáo, đưa đến trước mặt nói tôi ký, cũng may tôi phát hiện ra, nếu sơ ý, ký vào là mất trắng toàn bộ nhà, đất, tài sản vào tay CQQ9 ( Trị giá khoảng 6-70 tỷ ) nói theo dân dã, đây là hành vi lưu  manh “ bút sa gà chết ” còn nói gì được !
Ngay sau khi nhận QĐ bồi thường số 3144/ tôi đã làm đơn khiếu nại. Yêu cầu CQQ9 giải quyết những hành vi sai trái trên ( cơ sở pháp lý nào nói nhà đất của tôi nằm vào quy hoạch khu CNC. Tại sao nêu căn cứ pháp lý là LĐĐ 2003 nhưng tính bồi thường lại áp dụng LĐĐ1993, 1998, 2001 )

Quyết định cưỡng chế hành chính tàn phá hủy diệt san bằng trang trại của tôi không phải cho dự án khu CNC mà cho Cty tư nhân T.C làm kho chứa hàng kinh doanh tạp vụ.
Ngày 3/4/2009 UBND Q9 ra Quyết định số 13/QĐ-UBND về việc cưỡng chế hành chính, do Phó chủ tịch Nguyễn Văn Thành ký thay với lý do : “ Điều I. Nay áp dụng biện pháp cưỡng chế  hành chính đối với hộ ông Nguyễn Xuân Ngữ ….về việc không nghiêm túc thi hành quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/ 6 /2002 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh …”
Quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của UBND TPHCM về việc thu hồi đất giao xây dựng Khu công nghệ cao, để thu hồi đất và cưỡng chế thu hồi đất của gia đình tôi là mang tính bịa đặt, vu khống nhằm chiếm đất của tôi và trả thù tôi không  có 2 tỷ..như ông phó CTUBQ9 Nguyễn Văn Thành gợi ý và không cho người nhà ông trưởng BBT vào ở lâu dài, mà còn bị tôi tố cáo quyết liệt, bị nhiều cơ quan báo đưa lên công luận . Nhất là trong khi gia đình tôi chưa bao giờ nhận được, chưa bao giờ nhìn thấy Quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002. Tôi đã có văn bản yêu cầu Chủ tịch UBND TPHCM và Ủy ban Nhân dân (UBND) Quận 9, giao cho tôi Quyết định  này. Nhưng đến nay đã hơn 10 năm, Ông Chủ tịch UBND TPHCM và UBND Quận 9 vẫn chưa giao và không thông báo lý do tại sao ?
Quyết định 2666/QĐ-UBND không nêu rõ khả năng đất của tôi trong phạm vi điều chỉnh của quyết định này. Tóm lại, đến thời điểm 01/07/2004 (thời điểm Luật Đất đai 2003 có hiệu lực) không có bằng chứng xác định Quyết định 2666/QĐ-UBND nêu trên liên quan trực tiếp đến đất của nhà tôi (nếu có, đề nghị UBND Q9 cung cấp bằng chứng).
UBND Q9 cho rằng họ áp dụng khoản 3 điều 39 Luật Đất đai 2003 để cưỡng chế thu hồi đất đối với tôi, trích dưới đây:
" Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế".
- UBND Q9 cho rằng tôi không chấp hành quyết định thu hồi đất của UBND Thành phố (Quyết định 2666/QĐ-UBND).
- Nếu đúng vậy, UBND Thành phố phải ra quyết định cưỡng chế và UBND Q9 không có quyền ra quyết định cưỡng chế thay UBND Thành phố.
Nói cách khác, UBND Q9 đã thừa nhận họ ban hành quyết định cưỡng chế sai thẩm quyền, sai hình thức, sai nội dung, sai tính pháp lý, vì cưỡng chế tại thời điểm tháng 05/2009 phải tuân theo Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của CP  
Theo Điều 60, việc cưỡng chế thu hồi đất  đã không đảm bảo những điều kiện :
Thực hiện đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại các điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59 Nghị định này.
Tôi không thấy UBND Q9 đã thực hiện trình tự thủ tục theo Điều 53 NĐ84/  về quyết định thu hồi đất.
“ Khoản 3 Điều 53 NĐ 84/2007 . Quyết  định thu hồi đất phải  được gửi đến  người có đất bi thu hồi và được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bi thu hồi trong suốt thời gianđến thời điểm  kết thúc thu hồi ”
Theo đó, phải có quyết định thu hồi đất chung kèm theo danh sách đất, tên người bị thu hồi, quyết định thu hồi đất riêng đối với từng thửa đất, tên người và phải gửi đến người có đất bị thu hồi, niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã. Tôi cho rằng UBND Q9 không thực hiện đúng theo Điều 58 Nghị định này.
Nói tóm lại quyết định  2666/QĐ là quyết định  thể hiện chủ trương thu hồi đất chung  nên không xác định ranh giới cụ thể , chỉ nêu chung chung thu hồi đất trong khu vực gồm các phường Tân Phú, Tăng Nhơn Phú A, Tăng Nhơn Phú B, Long Thạnh Mỹ và Phước Long B thuộc quận 9 và giao cho ban quản lý dự án khu CNC TP HCM . Là quyết định hành chính chỉ đạo điều  hành giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Không phải là quyết định thu hồi đất theo LĐĐ 1993 hay LĐĐ 2003.
Ngoài ra QĐ cưỡng chế nhà tôi số 13 này, có nêu căn cứ các văn bản pháp luật hiện hành,  ( LĐĐ 2003, NĐ 84/2007…), nhưng thực tế không thực hiện một điều khoản nào của các văn bản này, mà áp dụng các quy định hết hiệu lực ( NĐ22 và QĐ 121/UBTP )
Đặc biệt QĐ 13 có nêu căn cứ QĐ 422/QĐ-UBND-TTr ngày 23/10/2006 của Chủ tịch UBNDTPHCM (?). Thực tế hơn 7 tháng sau, ngày 20/11/2009 : CQQ9 thừa nhận  QĐ 422 là của Chủ tịch UBNDQ9 (!)…CQQ9 nêu trong QĐ cưỡng chế để các cơ quan hữu quan cấp trên và công luận cho rằng ; việc  KN của tôi đã được cấp trên ban hành QĐ giải quyết KN lần 2, Vì tôi ngoan cố không chấp hành nên  họ có lý do cưỡng chế .. và đây là hành vi lạm dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước để thực hiện ý đồ mờ ám chiếm đoạt tài sản, đất  đai của tôi.
Việc phó chủ  tịch ký, thay mặt ( TM.) Chủ tịch ký QĐ CCHC nhà tôi là không đúng thẩm quyền.
Do những hành vi sai trái của CQQ9 và UBNDTP HCM nêu trên. Trong hơn 10 năm qua, theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo ( KN,TC ) và quy định thẩm quyền giải quyết. Tôi đã gửi đơn KN,TC, đơn kiến nghị, đơn kêu cứu, kêu oan đến các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền từ cấp quận, đến thành phố Hố Chí Minh. Đơn tôi gửi đều bị chuyền qua, chuyền lại rồi chìm trong im lặng.
Vì lẽ đó tôi mới phải gửi đơn lên các cơ quan  hữu quan của Trung ương  và các cơ quaan truyền thông Báo giới. Đã có trên 10 cơ quan Báo chính thống và Đài truyền hình TW đã có bài viết liên quan đến hành vi sai trái cùa CQQ9 đối với việc chiếm đất trái pháp luật của tôi .
Sau đó tôi đã nhận được giấy báo tin : Ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước qua văn bản số 78/VPCTN-PL, ngày 21/ 01/ 2010 gửi CTUBTPHCM xem xét, giải quyết đơn khiếu nại, kêu oan của tôi …
Hai văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “ giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo kiểm tra nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Xuân Ngữ, có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật ; báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ ” Văn bản thứ 2 số 6687/ VPCP-KNTN ngày 21/09/2010 … “ Văn phòng Chính phủ đề nghị đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả giải quyết khiếu nại của ông Ngữ trước ngày 15/10/2010.” (văn bản số 4642/VPCP-KNTN ngày 06/07/2010 xin gửi kèm )
Cùng với các văn bản chỉ đạo nêu trên, nhiều phiếu chuyển, công văn của các UB Quốc Hội, của các cơ quan TW Đảng, của nhiều đại biểu QH chuyển đến UBTPHCM. Trong đó có Văn bản của Đại biểu Quốc hội Trần Thị Quốc Khánh chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về trường hợp có liên quan đến nhà, đất, tài sản hợp pháp của tôi bị UBNDTPHCM và UBQ9 chiếm đoạt trái pháp luật. đã kéo dài nhiều năm không được chính quyền Q9 và UBTPHCM xem xét giải quyết !: Bà Trần Thị Quốc Khánh cũng có văn bản khác, gửi đích danh đến ông nguyên Bộ Trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc số 128/CV-ĐB đề ngày 23/ 9 / 2010.
Ngoài ra còn rất nhiều văn bản khác, như :
Ông Nguyễn Minh Thuyết với cương vị là Đại biểu Quốc khóa XII có văn bản số 183/ CV-ĐB đề ngày 24/ 9 / 2010 gửi đích danh đến ông nguyên Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền . …( xin gửi kèm các phiếu chuyển ...).
Tất cả những văn bản chỉ đạo, kiến nghị của TW gửi xuống, CTUBNDTPHCM đều làm ngơ, chỉ khi có công văn của Cục cảnh sát Điều tra về tôi phạm TTQL kinh tế và Chức vụ gửi đến UBNDTPHCM, thì UBTPHCM vội vã ban hành văn bản số 227/UBND-PCNC đề ngày 19/01/2011 do ông Nguyễn Thành Tài ký gửi đến các cơ quan hữu quan của TPHCM và nhiều cơ quan của TW nhằm bao che chạy tội cho những cán bộ lãnh đạo chủ chốt từng tham nhũng đất đai và đã nhiều lần công khai ăn hối lộ trong CQQ9, nói chung và phó chủ tịch phụ trách nhà đất Nguyễn Văn Thành nói riêng.
Nội dung trong văn bản số 227/UBND hoàn toàn là lời bịa đặt, vu khống bỉ ổi vô liên sỉ của các cán bộ khai gian lý lịch chui vào đảng, văn hóa chưa học hết cấp một phổ thông , vốn là cò đất cho người có tên là Trầm Bê nào đó. Nguyễn Văn Thành cũng là kẻ
reo rắc nạn tham nhũng đất đai ở TPHCM nói riêng và cả nước hiện nay nói chung, phó chủ tịch Thành nhả ra câu nào, Nguyễn Thành Tài lại đớp ngay câu đó, rồi phụt ra làm ô uế môi trường pháp luật.
Sau khi hủy diệt tàn bạo và cướp đoạt tài sản của tôi, ngày 11/6/2009 bà Nguyễn Thị Lê phó Bí thư thường trực quận uỷ Q9 mời tôi đến họp, bà giả vờ ngỡ ngàng, và thương hại: “ Không ngờ sự việc lại nghiêm trọng đến thế …Tôi thấy sức khỏe của ông Ngữ dạo này sa sút quá … ” ngày 09/8/2009 Phan Nguyễn Như Khuê Bí thư quận Uỷ quận 9 mời tôi tiếp xúc, ông ta giả nhân giả nghĩa, ăn năn làm như ân hận hối tiếc, trước khi kết thúc buổi họp ông Khuê miệng nói xoen xoét:
“ Thứ nhất: Lãnh đạo quận chúng tôi rất trân trọng gia đình Ông Ngữ đã sớm tham  gia CM và có nhiều công lao đóng góp cho hai cuộc kháng chiến …”
“Thứ 2: Lãnh đạo quận cũng rất trân trọng Ông Ngữ đã có nhiều năm tham gia chiến đấu tại chiến trường Miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, nay luôn chấp hành mọi chính sách của Đảng và Nhà nước, sẳn sàng hợp tác với địa phương trong việc phát triển kinh tế…”.
 - Ông Khuê thừa nhận:
Lãnh đạo quận có sơ sót là thiếu kiểm tra, tin vào việc chắp bút của các Ban, Ngành tham mưu cho Lãnh đạo Quận, viết văn bản báo cáo không coi lại kỹ nên để xảy ra sự việc đáng tiếc: Ông Ngữ là người không có tội, lại bị cho là có tội…!? Tôi sẽ chỉ đạo cho UBND quận tiếp tục mời Ông để làm rõ từng vấn đề nhưng là lời nói suông của một Thành Ủy viên ,TPHCM. ( Kẻ nói suông này nay được bổ nhiệm là Chánh Văn phòng Thành ủy ! Chánh Văn phòng của một Đảng bộ lớn nhất nước là con người như vậy? thì dân còn biết dựa vào ai? ).
Nhưng đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết. Thực tế, phần diện tích đất này vẫn thuộc chủ quyền của gia đình tôi vì việc thu hồi đất của Chính quyền Quận 9 và UBND TPHCM là trái pháp luật và diện tích đất này vẫn đang tranh chấp. Chưa có quyết định thu hồi.
Thế nhưng hiện nay toàn bộ diện tích đất nhà tôi CQQ9 đã giao cho Cty thương mại tư nhân T.C không sử dụng làm kho chứa hàng cho CNC như CQQ9 và UBND TPHCM nói là thu hồi đất cho CNC. Tôi đã có yêu cầu CQQ9 và UBND TPHCM không được xâm phạm diện tích đất nhà tôi nhưng hiện nay họ đã xây dựng mấy gian nhà kho.
            Ngày 27/3/2013, tôi nhận được Thông báo số 73/TB-UBND “về chấm dứt thụ lý giải quyết vụ việc tố cáo của ông Nguyễn Xuân Ngữ, quận 9”. Trong Thông báo này có nội dung căn cứ Luật tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Công văn số 2695/TTCP-VP ngày 19/10/2012 của Thanh tra Chính phủ về hướng dẫn ra thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại, tố cáo…. Sau khi tìm hiểu, tôi được biết, Công văn số 2695/TTCP-VP của Thanh tra Chính phủ được ban hành nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trong Mục 1 của Công văn 2695 về quy trình ra thông báo, trong đó nêu rõ, trước khi ra thông báo: Bước 1, phải họp liên ngành tại địa phương; Bước 2, tổ chức đối thoại, “tiến hành tổ chức đối thoại với người khiếu nại, tố cáo trên tinh thần công khai, dân chủ, qua đó vận động, thuyết phục người dân thực hiện phương án giải quyết (nếu qua đối thoại mà phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi bản chất vụ việc thì phải xem xét giải quyết lại để vụ việc đó được giải quyết đúng theo quy định của pháp luật và thấu tình, đạt lý)”. Bước 3, ra thông báo, bước này được thực hiện khi “những vụ việc qua đối thoại, giải thích, vận động, thuyết phục mà người khiếu nại, tố cáo đồng ý với phương án giải quyết, thì ra thông báo kết thúc giải quyết, chấm dứt khiếu nại, tố cáo; nếu đương sự không đồng ý thì ra thông báo chấm dứt thụ lý, xem xét, giải quyết vụ việc”. như vậy, quy trình ra thông báo chấm dứt khiếu nại, tố cáo rất nghiêm ngặt, tuy nhiên cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện đúng theo quy định này.
Bên cạnh đó, trong Công văn này còn có mục lưu ý khi triển khai “giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài là công việc khó khăn, phức tạp. Do vậy, việc thực hiện quy trình ra thông báo chấm dứt phải được thực hiện đầy đủ và hết sức thận trọng...chú trọng chất lượng của quá trình giải quyết  ”.
 Tôi nhận thấy cơ quan có hữu trách chưa thực hiện theo đúng chủ trương, quy
định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi về kinh tế (  thiệt hại 60-70 tỷ đồng ), tinh thần, sức khỏe hơn 10 năm qua.
        Nguy hại hơn, nội dung trong biên bản để báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ  và Quốc Hội là gian dối , xảo trá  không đúng sự  thật.
       II. Nội dung yêu cầu giải quyết:
         Từ những lý do trên, tôi phản đối hành vi quan liêu, thiếu tư cách của người cán bộ của bà phó Tổng thanh tra Chính phủ. Đặc biệt tôi tố cáo hành vi của Đoàn thanh tra do ông Vũ Huy Tác phó Cục trưởng Cục III Thanh tra Chính phủ, tổ trưởng tổ công tác cùng các thành viên trong tổ này đã có hành vi gian dối báo cáo Thủ tướng Chính phủ sai sự thật, không nêu lên những hành vi có dấu hiệu tham nhũng của UBND TPHCM:
        Trên đây tôi tạm nêu sơ bộ một vài sự việc, để chứng minh những hành vi tham nhũng của CQQ9 được liên thông từ cấp quận đến TW.
Sự việc này liệu có được Bộ Chính trị và Ban chỉ đạo TW về phòng chống tham nhũng, Ban Nội chính TW làm rõ không ?
1.       Đề nghị hủy bỏ hoặc thu hồi văn bản số 227/UBND-PCNC, Thông báo số 73/TB-UBND ngày 27/3/2013 của UBND TPHCM do ông phó chủ tịch Lê Minh Trí ký đối với việc tố cáo của tôi. Đồng thời buộc ông Lê Minh Trí phải công khai xin lỗi về hành vi gian dối, bất chính này công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.      Đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo UBNDTPHCM  nhanh chóng  giải quyết hai văn bản chỉ đạo của Thủ tướng số 4642/VPCP-KNTN ngày 06/07/2010 và Văn bản thứ 2 số 6687/ VPCP-KNTN ngày 21/09/2010 về việc  khiếu nại, tố cáo của tôi
3.       Đề nghị Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng. Ban Nội chính TW.  Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cho UBNDTPHCM và cơ quan hữu trách tổ chức buổi giải quyết bằng  đối thoại giữa tôi với CTUBNDTPHCM và cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tiến hành giải quyết dứt điểm vụ việc, tránh kéo dài, gây ảnh hưởng nhiều mặt đến gia đình tôi.
     Tôi mong nhận được sự quan tâm của Quý cấp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và  cơ quan hữu trách sau khi nhận được đơn tố cáo của tôi;  đề nghị cho tôi được biết ý kiến  đối với nội dung đơn này , bằng văn bản  thông báo theo quy định tại điểm b , c khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo số 3 .
                                         Tôi xin chân thành cảm ơn


                                                        Nguyễn Xuân Ngữ

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

THÔNG BÁO SỐ 10 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỊNH THÀNH LẬP HIỆP HỘI DÂN OAN VIỆT NAM (HHDOVN)



THÔNG BÁO SỐ 10 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỊNH THÀNH LẬP HIỆP HỘI DÂN OAN VIỆT NAM (HHDOVN)
Việt Nam, ngày 07/03/2014
Ngày 07/03/2014, bà Lê Hiền Đức và ông Nguyễn Xuân Ngữ đã làm “ĐƠN KHIẾU NẠI HÀNH VI HÀNH CHÍNH” với nội dung khiếu nại hành vi ký và ban hành văn bản số 559/BNV-TCPCP của Bộ Nội Vụ vào ngày 28/02/2014 (xem thông báo số 9). Bà Lê Hiền Đức đã gửi Đơn khiếu nại này đến ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Chúng tôi sẽ thông báo khi nhận được hồi đáp từ phía ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ.





Thay mặt những người định thành lập “Hiệp hội Dân oan Việt Nam”


Nguyễn Xuân Ngữ