CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc
---------
Quận 9, ngày 30 tháng 04 năm 2015
Đơn yêu cầu thay đổi thẩm phán xét xử
phúc thẩm
--------
Kính gửi: Chánh án Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh
1. Người ký đơn yêu cầu:
Nguyễn
Thu Giang, sinh năm 1946, CMND số 020588702, địa chỉ 5 Lã Xuân Oai, KP6,
phường Tăng Nhơn Phú A, Quận 9, TPHCM, là đại diện cho vợ tôi là nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều theo HĐ ủy quyền công
chứng ngày 29/03/2011, trong vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế giữa bà Đặng Thị
Tuyết, bà Huỳnh Thị Kiều với bà Lê Thị Cầu”; bản án sơ thẩm số 284/2014/DS-ST
ngày 06/10/2014; Hồ sơ thụ lý phúc thẩm số 897/2014/TLPT-DS ngày 31/12/2014 và
quyết định số 674/QĐPT-DS ngày 10/03/2015 của TANDTPHCM đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm ngày 31/03/2014.
2. Thẩm phán bị yêu cầu thay đổi:
Ông Lê Hoàng Tấn, Thẩm phán – Chủ
tọa phiên tòa phúc thẩm.
3.Cơ sở pháp lý của yêu cầu thay đổi:
-Khoản 3
Điều 46 BLTTDS: “Có căn cứ rõ ràng cho rằng
họ có thể không vô tư
trong khi làm nhiệm vụ”.
trong khi làm nhiệm vụ”.
-Điểm K
khoản 2 Điều 58 BLTTDS (đương sự có quyền): “Yêu cầu thay đổi
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này”;
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này”;
-Khoản 2
Điều 103 Hiến pháp 2013. “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
4.Lý do yêu cầu thay đổi Thẩm phán:
Theo quyết định 674/QĐPT-DS, ngày
31/03/2015 là ngày xét xử phúc thẩm, nhưng do vắng nhiều nên phải hoãn. Dù chưa
xét xử, nhưng trong buổi này, thẩm phán Lê Hoàng Tấn, chủ tọa phiên tòa có
những biểu hiện hiểu sai pháp luật, và không thể hiện tư cách của một công chức
bảo vệ pháp luật. Tôi xin trình bày như sau:
Ông Lê Hoàng Tấn được giao xét xử phúc thẩm
vụ án này. Theo quy định ông Tấn phải nghiên cứu kỹ vụ án, nghiên cứu kỹ bản án
và đặc biệt là nghiên cứu kỹ đơn kháng cáo của các đương sự.
Sau
khi nhận được bản án sơ thẩm số 284, nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều đã nghiên cứu kỹ
bản án này và đã ký đơn kháng cáo bổ sung đề ngày 22/11/2014. Trong đơn này
nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều đã chỉ rõ 22 sai phạm của bản án 284 trong đó có
nhiều lỗi vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng.
1/.Hôm
ấy, thái độ của ông Tấn có biểu hiện áp chế tôi, bảo tôi phải nhớ và chỉ ra các
phần đất mà nguyên đơn yêu cầu, không được cầm đọc !?
2/.Ông Tấn nói theo NQ 02, những người
mua đất bằng giấy tay ở đây được công nhận (như bản án sơ thẩm), nghĩa là ông
cho rằng NQ02 bảo vệ người tiêu thụ tài sản do ăn cắp mà có? Tức là NQ 02 phủ
định các điều luật do Quốc hội ban hành!? (tôi phân tích kỹ trong bài phát biểu
đề ngày 31/03/2015 - đính kèm). Tôi khẳng định NQ02 không công nhận các giao
dịch bằng giấy tay QSD đất di sản chưa chia đang có tranh chấp…
3/. Ông Tấn hỏi phía bà Kiều có thay đổi yêu cầu gì
không? Tôi trả lời là không. Ngoài việc đảm bảo quyền lợi QSD đất 110m2 và vẫn
yêu cầu tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng QSD đất trái quy định của pháp
luật. (Di sản chưa chia, đang có tranh
chấp, không có giấy tờ hợp pháp, chuyển nhượng bằng giấy tay, không qua công
chứng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Tiếp tục yêu cầu tuyên UBND Q9
thu hồi và hủy bỏ tất cả các quyết định, giấy chứng nhận QSD đất, giấy phép xây
dựng và các giấy tờ khác do UBNDQ9 đã cấp sai quy định của pháp luật trên phần
đất di sản 1.504m2 này.
Ông hỏi lại tôi mấy câu mà tôi không hình
dung một Thẩm phán – người nhân danh tổ chức bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý –
có thể hỏi tôi những câu này?!
Ông hỏi hợp đồng vô hiệu là làm sao? Tôi
nói: Ai nhận tiền thì trả lại tiền, ai nhận đất thì trả lại đất. Ông nói tiếp:
người ta đang đã ở ổn định, hủy hợp đồng, hủy các giấy tờ đó để làm gì? Tôi trả
lời: Ta đang sống trong chế độ Nhà nước pháp quyền, tất cả mọi người, kể cả cơ
quan nhà nước phải làm theo pháp luật. Pháp luật có nghiêm thì mới thiết lập được
trật tự xã hội…
Ông lại hỏi: Hậu quả, thiệt hại ai chịu?
Tôi trả lời: Ai gây ra thì người đó chịu. Người mua phải biết mình mua tài sản
của ai, có hợp pháp không? Nếu có sai lầm thì họ phải trả giá…
Qua những câu nói nêu trên thể hiện ông Lê
Hoàng Tấn không hiểu vị trí, chức năng, thẩm quyền NQ02 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, ông không hành xử với tư cách là một công chức của Tòa án - cơ quan bảo
vệ pháp luật…Ông đã vi phạm khỏan 3 Điều 46 BLTTDS, khoản 2 Điều 103 Hiến pháp
2013.
Những câu nói sai pháp luật nêu trên của
ông Lê Hoàng Tấn cũng không loại trừ dấu hiệu ông Tấn “không nỡ” tuyên xử theo hướng vô hiệu tất cả
các hợp đồng sai pháp luật và các giấy tờ đã cấp sai pháp luật này bởi vì trong
số đó có bà Tăng Thị Nguyệt, một công chức của TANDQ9, một đồng nghiệp của ông
(?).
Vì những lỳ do đó nên tôi không an tâm
để Thẩm phán Lê Hoàng Tấn chủ tọa phiên xử phúc thẩm vụ án này.
Căn cứ
điểm k, khoản 2 Điều 58 BLTTDS, tôi kính đề nghị Lãnh đạo Tòa án nhân
dân thành phố xem xét phân công một thẩm phán khác có đủ năng lực pháp luật và vô
tư, khách quan…. chủ tọa phiên xử phúc thẩm vụ án này.
5.Vụ khiếu kiện này
kéo dài 16 năm, đã qua 3 cấp tòa, trước đây đã có dấu hiệu móc ngoặc giữa Tòa
sơ thẩm, Tòa phúc thẩm, Viện Kiểm sát nhân dân TP, Vụ 5 VKSNDTC… nên lần này
tôi lo ngại lịch sử sẽ lặp lại!?
Ngày
23/09/2014 nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều đã gửi kèm theo Bản tự khai bổ sung 29 bản
chụp các chứng cứ.
Trong Đơn kháng cáo bổ sung ngày 22/11/2014,
nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều cũng đã gửi bổ sung: Quyết định 37/QĐ-UBND ngày
31/03/2009 của UBNDQ9 v/v giải quyết khiếu nại cho bà Tuyết.
(mời
quý vị nghiên cứu kỹ các chứng cứ này).
Nay tôi xin bổ sung thêm 10 bản chụp theo Danh mục
đính kèm.
Tôi xin phân tích các văn bản này, để chỉ ra
các dấu hiệu không bình thường của TP Đặng Minh Chính:
-Yêu cầu nguyên đơn ký lùi lại đơn khởi
kiện nhằm mục đích gì?
-Theo quy định, đến ngày 10/03/2003 là
hết thời hiệu, mà ngày 21/04/2003 ký
giấy giới thiệu tạm nộp nộp án phí?
giấy giới thiệu tạm nộp nộp án phí?
-Ngày 03/11/2003 ông ra QĐ thành lập
HĐĐG ….
Không biết TP Đặng Minh Chính có nhận được
“tín hiệu” gì từ TP Nguyễn Hữu Ba (TANDTP)? mà TP Đặng Minh Chính vội vàng ra
quyết định đình chỉ (QĐ53/ĐC, 10/11/2003), mà trước đó chỉ đúng một tuần vị
thẩm phán này còn ký quyết định thành lập Hội đồng định giá ???
Tiếp đến, ngày 15/03/2004 TP Nguyễn Hữu
Ba (cùng TP Nguyễn Tấn Luận, TP Nguyễn Thanh Bình) ký Quyết định phúc thẩm số
414/DSPT): Bác đơn kháng cáo; Giữ y quyết định 53/ĐC. Các vị thẩm phán nhân
danh công lý này cố tình đẩy vụ án vào ngỏ cụt?
Ngày 14/05/2004 nguyên đơn ký Đơn xin yêu cầu
kháng nghị Giám đốc thẩm.
Ngày 25/08/2004 Chánh án TANDTPHCM, Bùi Hoàng
Danh ký CV 2462/GĐKT-DS gửi Chánh án TANDTC đề nghị kháng nghị QĐ sơ thẩm và QĐ
phúc thẩm theo thủ tục Giám đốc thẩm.
Tới đây tưởng vụ kiện được thuận buồm!
Nhưng không, ngày 27/09/2004 thẩm phán Chu
Xuân Minh, Phó Chánh Tòa Dân sự TANDTC ký CV 3581/CV/DS gửi bà Tuyết, TANDQ9,
TANDTPHCM, Vụ 5-VKSNDTC với nội dung: xét
thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà…
Hai cơ quan có thẩm quyền quyết định Giám đốc thẩm là Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC. CV 3581 do TP Chu Xuân Minh, Phó Chánh tòa Dân sự TANDTC ký coi như đã “binh” được một đường. Kẻ “rắp tâm” đẩy vụ kiện vào ngỏ cụt, ra sức “binh” ngỏ còn lại, ngỏ Viện trưởng VKSNDTC.
Hai cơ quan có thẩm quyền quyết định Giám đốc thẩm là Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC. CV 3581 do TP Chu Xuân Minh, Phó Chánh tòa Dân sự TANDTC ký coi như đã “binh” được một đường. Kẻ “rắp tâm” đẩy vụ kiện vào ngỏ cụt, ra sức “binh” ngỏ còn lại, ngỏ Viện trưởng VKSNDTC.
Ngày 10/11/2004 ông Đồng Văn Bình, Trưởng
phòng KSGQA HC-LĐ-KT của VKSNDTPHCM ký CV 83/KS HC-KT-LĐ gửi Vụ 5–VKSNDTC khẳng
định: “Qua nghiên cứu nội dung đơn khiếu
nại, toàn bộ hồ sơ vụ kiện và Quyết định Phúc thẩm của Tòa án nhân dân Tp.Hồ
Chí Minh nhận thấy không có chứng cứ hay tình tiết gì mới. Do đó, VKSNDTPHCM
thấy không có cơ sở để kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm, Tái thẩm.”
Nguyên đơn khiếu nại CV 83/KS
HC-KT-LĐ.
Ngày 06/09/2005 ông Phạm Văn Gòn Phó
Viện Trưởng (nay là Viện trưởng) VKSNDTPHCM ký CV535/VKS trả lời đơn khiếu nại
của bà Tuyết, khẳng định nội dung CV83/KS HC-KT-LĐ là đúng, không có cơ sở
kháng nghị Giám đốc thẩm, Tái thẩm và nhắc lại CV 3581/CV/DS của TANDTC (mặc dù
CV này gửi trực tiếp cho bà Tuyết), nhắc lại: “không có căn cứ để chấp nhận yêu
cầu của bà”.
Như vậy, tính từ khi ông Đặng Minh Chính
TANDQ9 ký QĐ 53/ĐC (10/11/2003) đến ngày ông Phạm Văn Gòn, Viện phó VKSNDTP ký
CV 535/VKS (06/09/2005), gần 2 năm, đã có 08 cán bộ có tầm cỡ cầm cân nẩy mực,
có chính kiến vụ kiện (thể hiện trên văn bản) thì chỉ có duy nhất ông Chánh án
TANDTP Bùi Hoàng Danh ký CV 2462/GĐKT-DS là công chức hiểu đúng pháp luật, 07
vị còn lại (Chính, Ba, Luận, Thanh Bình, Minh, Văn Bình, Gòn), chiếm 87,5% sồ
người có chính kiến hiểu sai pháp luật??? Chả lẽ 07 vị này có “tư tưởng lớn”
gặp nhau!!! Tôi có một nghi vấn: 87,5% các vị có vị trí cầm cân nẩy mực tầm cỡ như
vậy mà không hiểu pháp luật hay các vị này vì cái gì mà khiến cho các vị phải làm
sai? Ở cương vị của các vị thuộc hàng “siêu sao” rồi mà bảo do năng lực, nhận
thức kém hay tắt trách (thuộc phạm trù đạo đức) cũng đều không thể chấp nhận
được…
Nay, sau khi nhận bản án
284/2014/DS-ST ngày 06/10/2014 của TANDQ9, tôi nhận thấy bản án này vi phạm
pháp luật nghiêm trọng. Trong đơn kháng cáo bổ sung ngày 22/11/2014 của nguyễn
đơn và Bài phát biểu của tôi đề ngày 31/03/2015 đã phân tích kỹ 22 điểm sai
phạm của bản án.
Thực tình tôi rất lo ngại lịch sử sai phạm
sẽ lặp lại như hơn 10 năm trước. Tôi mong lãnh đạo TANDTPHCM lưu ý đến việc
phân án làm sao để tránh sự “móc ngoặc” giữa tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm như
trước đây…
Nhưng khi nghe những câu nói của thẩm
phán Lê Hoàng Tấn trong ngày 31/03/2015 (nêu trên) có dấu hiệu lịch sử sai phạm
10 năm trước sẽ lặp lại!!!
Ông Tấn hiểu sai NQ 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/08/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, cho rằng NQ02 cho công nhận giao dịch
QSD đất di sản chưa chia, đang có tranh chấp, không có giấy tờ hợp pháp, chuyển
nhượng bằng giấy tay, không qua công chứng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền!!!
Ông hỏi hợp đồng vô hiệu là làm sao? Thu hồi và hủy bỏ các giấy tờ do UBNDQ9
cấp sai pháp luật để làm gì?...Những câu hỏi này không phải của một thẩm phán, với
trọng trách bảo vệ pháp luật…
6.
Trước thực trạng và tình tiết nêu trên, ông Tấn đã vi phạm khỏan 3 Điều 46
BLTTDS, khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013. Nay tôi yêu cầu Chánh án TANDTPHCM không
để thẩm phán Lê Hoàng Tấn chủ tọa xét xử phúc thẩm vụ án này. Đồng thời đề nghị
khi phân cho thẩm phán khác cần lưu ý để tránh sự “móc ngoặc”, để không làm oan
sai, thiệt hại cho người có quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp, và để vụ án không phải Giám đốc thẩm lần thứ
hai.
Kính mong được đồng chí Chánh án
TANDTPHCM xem xét, chấp thuận.
Đính kèm các bản chụp:
1.Phiếu
nhận đơn ngày 21/10/2002 của TANDQ9
2.Biên
nhận đơn lần 2 (19/03/2003) của TANDQ9
3.Biên
lai thu tiền tạm ứng án phí theo
Giấy
giới thiệu nộp tạm ứng án phí số 206/TA ngày 21/04/2003 của TANDQ9.
4.QĐ
thành lập HĐĐG ngày 03/11/2003 của TANDQ9
5.QĐ
53/ĐC ngày 10/11/2003 v/v đình chỉ giải quyết vụ án vì hết thời hiệu của
TANDQ9 do Thẩm phán Đặng Minh Chính ký.
TANDQ9 do Thẩm phán Đặng Minh Chính ký.
6.QĐ
414/DSPT ngày 15/03/2004 Quyết định phúc thẩm của TANDTPHCM do các
thẩm phán Nguyễn Hữu Ba (Chủ tọa) cùng TP Nguyễn Tấn Luận và TP Nguyễn
Thanh Bình: Bác đơn kháng cáo, giữ y QĐ 53/ĐC…
thẩm phán Nguyễn Hữu Ba (Chủ tọa) cùng TP Nguyễn Tấn Luận và TP Nguyễn
Thanh Bình: Bác đơn kháng cáo, giữ y QĐ 53/ĐC…
7.CV
2462/GĐKT-DS ngày 25/08/2004 của TANDTPHCM
v/v Đề nghị kháng nghị
QĐ sơ thẩm và QĐ phúc thẩm theo thủ tục Giám đốc thẩm do Chánh án Bùi
Hoàng Danh ký.
QĐ sơ thẩm và QĐ phúc thẩm theo thủ tục Giám đốc thẩm do Chánh án Bùi
Hoàng Danh ký.
8.CV
3581/CV/DS ngày 27/09/2004 của Tòa Dân sự TANDTC, do phó Chánh Tòa
Chu Xuân Minh ký cho rằng:không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu Giám đốc
thẩm.
Chu Xuân Minh ký cho rằng:không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu Giám đốc
thẩm.
9.CV
83/KS-HC-KT-LĐ ngày 10/11/2004 của VKSNDTPHCM do Trưởng phòng
KSGQA HC-LĐ-KT, Đồng Văn Bình ký, trả lời Vụ 5 – VKSNDTC, không có cơ
sở để kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm, Tái thẩm (!?).
KSGQA HC-LĐ-KT, Đồng Văn Bình ký, trả lời Vụ 5 – VKSNDTC, không có cơ
sở để kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm, Tái thẩm (!?).
10.CV
535/VKS ngày 06/09/2005 của VKSNDTPHCM do Phó viện trưởng (nay là
Viện trưởng) Phạm Văn Gòn ký gửi cho bà Tuyết nhắc lại CV 83/KS-HC-KT-LĐ
và CV 3581/CV/DS: có nội dung: không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin
kháng nghị GĐT của bà.
Viện trưởng) Phạm Văn Gòn ký gửi cho bà Tuyết nhắc lại CV 83/KS-HC-KT-LĐ
và CV 3581/CV/DS: có nội dung: không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin
kháng nghị GĐT của bà.
11.Bài
phát biểu đại diên nguyên đơn HTK ngày 31/03/2015.
Kính chào trân trọng.
Người ký đơn
yêu cầu
Đại diện cho nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều
NGUYỄN THU GIANG
DANH MỤC BẢN CHỤP CÁC CHỨNG TỪ ĐÃ GỬI KÈM BẢN TỰ KHAI
BỔ SUNG NGÀY 23/09/2014 CỦA NGUYÊN ĐƠN HUỲNH THỊ KIỀU
--------
1. Bản sơ đồ xác định các thừa kế của ông Mân, bà Nhân.
2.
Biên nhận của
VPUBNDQ9 nhận đơn xin chia và cấp QSD đất di sản thừa kế 10/12/1999 của bà Đặng
Thị Tuyết.
3.
CV 55/UB ngày
23/08/2002 của UBNDP.TNPA v/v trả đơn tranh chấp nhà đất của gia tộc, nguyên
đơn nhận lại hồ sơ để khởi kiện ra tòa.
4.
CV 51/BC-UB ngày
10/10/2002 của UBNDPTNPA gửi UBNDQ9, PQLĐTQ9 báo cáo vụ việc tranh chấp, phường
hòa giải không thành.
5.
CV 4406/UB-QLĐT
ngày 25/10/2002 của UBNDQ9 trả lời khiếu nại của bà Đặng Thị Tuyết về việc :
Giải quyết tranh chấp đất thổ cư của gia tộc, và hướng dẫn khởi kiện ra tòa.
6.
CV4712/CV-UB-QLĐT
ngày 20/11/2002, của UBNDQ9 trả lời đơn kiến nghị ngăn chặn chuyển quyền của bà
Đặng Thị Tuyết, công văn có chuyển cho UBNDPTNPA.
7.
Biên bản ngày12/9/2001
UBNDP làm việc tranh chấp giữa bà Cầu với bà
Cúc, giữa bà Tuyết với bà Cầu.
8.
Đơn bà Cầu tranh
chấp với bà Cúc 9/11/2001.
9.
Đơn bà Cầu tranh
chấp với Vũ Văn Phát ( 09/01/2002 ).
10.
Biên bản làm việc của UBNDP .TNPA với Nguyễn
Quang Bình 02/07/2002.
11.
Biên bản làm việc của UBNDPTNPA với ông Vũ Văn Phát, Nguyễn Văn Nam, Vũ Văn Nhứt ngày
02/07/2002.
12.
Biên bản đo đạc và bản vẽ thực tế ngày 25/06/2002 do yêu cầu của bà Cầu, bà
Cúc, bà Tuyết, bà Kiều .
13.
Báo cáo thực địa
18.10.1995 ( HS bán cho Vũ Văn Phát )
14.
GCN QSH nhà QSD
đất 3721/2004 ngày 04/08/2004 cấp cho Vũ Văn Phát
15.
GCN số 1892/2004
ngày 04/05/2004 cấp cho ông Huỳnh Văn Vinh
16.
GCN số BC 512454 ngày 23/12/2010 cấp cho ông Phan
Hữu Sơn
17.
Giấy phép XD số
603/GPXD cấp cho ông Phan Hữu Sơn ngày 16/5/2011
18.
Đơn yêu cầu ngăn
chặn chuyển dịch và xây dựng ngày 19/5/2011 của bà Đặng Thị Tuyết
19.
Biên nhận đơn số 905+906 ngày 20/5/2011 của
VPUBNDQ9
20.
Giấy thỏa thuận
mua bán đất cho ông Nguyễn Quang Bình ngày 20/7/1996
21.
Báo cáo thực địa
21/8/1997 ( HS bán cho Nguyễn Văn Trung )
22.
Đơn xin giao đất
21/01/1998 của Lê Thị Chuyện cho Bùi Minh Hải
23.
Báo cáo thực địa 1/6/1998 để giao đất cho Bùi
Minh Hải
24.
Giấy sang nhượng
đất 30/3/2002 của bà Lê Thị Cầu cho ông Hoàng Đình Lâm
25.
Bảng tường trình
ngày 04/07/2002 của ông Hoàng Đình Lâm
26.
Đơn xin cho
chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Bàng 23/05/2002
27.
QĐ 929/QĐ-UBND
ngày 02/04/2009 của UBNDQ9 thu hồi GCN QSD đất của Hoàng Đình Lâm.
29.
Trích Điều 30 LĐĐ 1993, Điều 50 LĐĐ 2003, Điều
21 NĐ 84/2007/NĐ-CP