Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

KHÔNG CÓ ĐẠO LÝ, CÔNG LÝ GÌ CẢ, CHỈ CÓ "CONG LÝ"

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
Quận 9, ngày 29 tháng 09 năm 2015
Bảng trình bày tóm tắt nội dung phản bác bản án 284/2014/DS-ST
của đại diện nguyên đơn HTK
--------

Kính thưa: Hội đồng xét xử phúc thẩm
Kính thưa: đại diện Viện Kiểm sát phúc thẩm. 
Kính thưa quý vị 

   Tôi đại diện cho nguyên đơn HTK hôm nay xin trình bày tóm tắt một số nội dung kháng cáo bản án 284/2014/DS-ST ngày 06/10/2014 của TANDQ9 như sau:

   1. Nguyên đơn HTK kháng cáo toàn bộ bản án 284/2014/DS-ST vì áp dụng không đúng quy định của pháp luật, vi phạm tố tụng, xác định chưa đủ khối di sản. Cụ thể: 

   a- Di sản của ông Lê Văn Mân, Bà Nguyễn Thị Nhân, là ông bà nội của nguyên đơn HTK, để lại là một căn nhà và 1.504 m2 đất thổ cư tập trung (theo bản trích lục ngày 26/11/2001), Bản vẽ ngày 21/05/2007 là 1.498,2 m2. Theo hồ sơ do phường cung cấp: năm 1995 ông Trường bán bằng giấy tay khối di sản này cho ông Phát 200 m2, Năm 1996 ông Trường bán cho ông Bình 105 m2. Bản vẽ 12/11/2012 và bản án 284 không đưa 2 phần đất nầy vào khối di sản chỉ xác định 1.296,5m2 là không đúng (vì viên chức khi đo vẽ không vào được 2 nhà này nên bỏ ra. Điều đó không có nghĩa là 2 phần đất đã bán không nằm trong khối di sản).

   b- Đây là khối di sản chưa chia, nên không ai có quyền chuyển nhượng. Đã phát sinh tranh chấp từ năm 1999. Qua biên nhận 10/12/1999 của VPUBNDQ9, CV 55/UB 23/8/2002; CV 51/BC-UB 10/10/2002 của UBNDP.TNPA; CV 4406/UB-QLĐT 25/10/2002; CV 4712/CV-UB-QLĐT 20/11/2002, QĐ 37/QĐ-UBND 31/3/2009, QĐ 929/QĐ-UBND 02/4/2009 của UBNDQ9 va P.TNPA biết rất rõ việc tranh chấp này. Bản án cố tình không nêu tình trạng pháp lý này, mặc dù nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ…

   c-Đất đang tranh chấp, chưa chia, chưa ai có quyền sử dụng và tự mình đứng ra chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng là 1).Trái pháp luật, vì đã chuyển nhượng di sản chưa chia mà không được sự đồng ý của các thừa kế khác; 2) chuyển nhượng bằng giấy tay (vi phạm Điều 131 BLDS 1995). 3)Việc chuyển nhượng không được phép của cơ quan có thẩm quyền (vi phạm Điều 707 BLDS 1995). 4) Đất chuyển nhượng không có giấy tờ hợp pháp, đất đang có tranh chấp (vi phạm Điều 30 LĐĐ 1993, Điều 50, Điều 106, Điều 146 LĐĐ 2003). 5) Thủ tục chuyển nhượng không thực hiện tại UBNDTP (vi phạm điều 31 LĐĐ 1993). 6) Hồ sơ chuyển nhượng không đủ, hợp đồng chuyển nhượng không qua công chứng… (vi phạm điểm b khoản 1 Điều 127 LĐĐ 2003).

   d-Các hợp đồng chuyển nhượng thuộc khối di sản này đều trái quy định của pháp luật. Bản án 284 không xét từng hợp đồng (tư cách - quyền - của người chuyển nhượng, hình thức hợp đồng chuyển nhượng …) mà công nhận tất cả các hợp đồng chuyển nhượng này là sai quy định của pháp luật. Mặt khác Bản án cho rằng áp dụng NQ02/2004 để công nhận là không đúng. Bởi vì tại Tiểu mục 2.3 mục II NQ02 quy định :

   Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây... Các hợp đồng chuyển nhượng trong vụ án này đều vi phạm các điều luật này, đã phấn tích ở trên. Bản án có trích dẫn điểm b.3 tiểu mục 2.3 mục II NQ02, nhưng theo tôi Bản án hiểu không đúng nội hàm của chủ thể Bên chuyển nhượng của NQ02, Bên chuyển nhượng không phải những người tự lấy tài sản chưa chia đem bán để riêng mình hưởng lợi…
NQ02 đã ghi rõ nhiệm vụ quyền hạn của nó chỉ là hướng dẫn áp dụng pháp luật thì không thể làm trái các quy định của Luật.

   đ-UBNDQ9 cấp GCN QSD đất cho một số người nhận chuyển nhượng trong tình trạng đất đang tranh chấp và chưa có giấy tờ hợp lệ như nêu trên là trái điều 30 LĐĐ 1993 (1998, 2001), Điều 50 LĐĐ 2003… Khi bị khiếu nại, UBNDQ9 thừa nhận việc cấp GCN này là sai (xem QĐ 37/QĐ-UBND 31/3/2009, QĐ 929/QĐ-UBND 02/4/2009).
Vì vậy bản án 284 không xem xét trình tự, thủ tục, nguồn gốc đất khi cấp GCN mà công nhận tất cả GCN (kể cả GCN đã bị thu hồi theo Điều 21 NĐ 84/2007) là sai quy định pháp luật.

   e-Bản án có nội dung không đúng sự thật. Ông Nguyễn Văn Bàng (con bà Cầu) chuyển nhượng cho Hoàng Đình Lâm, chứ không phải bà Cầu chuyển nhượng. Ông Bàng chỉ được hưởng 1/14 kỷ phần của bà Cầu được chia theo pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của ông Bàng và của bà Cầu khác nhau nên không thể đánh đồng được.
Bản án có nội dung mâu thuẫn. Tại trang 8 bản án đã ghi nhận bà Cúc “yêu cầu Tòa án hủy tất cả các trường hợp mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên phần di sản này và chia thừa kế theo quy định pháp luật”. Nhưng tại phần công nhận các hợp đồng chuyển nhượng, tại trang 21 lại ghi: “Bên chuyển nhượng không phản đối”. Đó là nội dung hoàn toàn sai sự thật.

   e- Bản án đã vi phạm tố tụng, giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự. 

-Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ bị đơn (con bà Cầu) có người bị bệnh tâm thần (theo khai nhận của ông NVH (con bà Cầu 31/03/2015), nhưng bản án 284 không tiến hành các thủ tục giám định, giám hộ người tham gia phiên tòa là sai thủ tục tố tụng.

-Bà B, bà Th. đều là vợ ông Mãng và đều đã chết, nhưng bà Th. được đưa vào người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, còn bà B. thì không, là vi phạm tố tụng, quy định tại khoản 4 Điều 56 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004.

- Bản án không ghi nhận một trường hợp nào nộp đơn yêu cầu và tạm ứng án phí để tòa xét công nhận hợp đồng chuyển nhượng cũng như GCN, mà Tòa công nhận tất cả các hợp đồng, GCN. Như vậy rõ ràng là “Tòa vi phạm tố tụng, giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự”.

-Vì áp dụng sai pháp luật nêu trên, tổng hợp phần ông Trường hưởng 611,6m2, bà Ngởi (bà Tuyết đại diện) hưởng 397,96 m2, ông Mãng, bà Cầu mỗi người hưởng 159,36m2 … là vi phạm Điều 30 Pháp lệnh Thừa kế, vi phạm khoản 2 Điều 679 BLDS năm 1995, khoản 2 Điều 676 BLDS 2005: “những người thừa kế cùng hàng được chia phần di sản ngang nhau”.

   2.Kiến nghị, yêu cầu HĐXXPT:

   1).Tuyên hủy bản án số 284/2014/DS-ST ngày 06/10/2014 của Tòa án nhân dân Quận 9, yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Vì lý do nào đó mà Tòa cấp phúc thẩm tuyên không hủy bản án này, tôi yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm (TANDTPHCM), tuyên: 

   2).Tuyên nguyên đơn HTK được hưởng 110 m2 QSD đất (bao gồm cả kỷ phần của mẹ HTB) trong khối di sản của ông bà nội là ông Mân, bà Nhân chết để lại. 

   3).Tuyên vô hiệu tất cả các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trái quy định của pháp luật. (Di sản chưa chia, đang có tranh chấp, không có giấy tờ hợp pháp, chuyển nhượng bằng giấy tay, không qua công chứng và cơ quan nhà nước có thẩm quyền).

   4).Tuyên yêu cầu UBNDQ9 thu hồi và hủy bỏ tất cả các quyết định, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng và các giấy tờ khác do UBND quận 9 đã cấp sai quy định của pháp luật trên phần đất di sản 1.504m2 này (theo quy định tại Điều 21 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ-Thu hồi GCN đã cấp sai).

   Trong bản tự khai bổ sung ngày 23/9/2014 nguyên đơn đã gửi kèm 29 bản chụp chứng cứ, ngày 22/112014 tại đơn kháng cáo bổ sung, nguyên đơn gửi kèm thêm bản chụp QĐ 37/QĐ-UBND ngày 31/3/2009 của UBNDQ9 v/v giải quyết khiếu nại cho bà Đặng Thị Tuyết.

   Hôm nay, tại phiên xử PT này tôi gửi bổ sung: 
-Bản chụp Bản trích lục Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 26/11/2001 diện tích 1.504m2.
-Bản chụp Bản đồ hiện trạng vị trí 21/05/2007 1.498,2 m2. 
-Bản phân tích hiện trạng theo bản vẽ 12/11/2012 1.296,5 m2.
Đại diện nguyên đơn
Xem thêm